Bệnh lao gây ra bởi vi khuẩn lao (BK), do lây nhiễm trực tiếp. Trẻ em - nhất là trẻ sơ sinh dễ bị lây bệnh. Ở trẻ em, bệnh lao chiếm tỷ lệ 10 - 15% trong số những trường hợp bệnh lao mới mắc hằng năm. Trẻ em có thể bị mắc tất cả các thể lao, tuy nhiên, thường gặp hơn cả là các thể: Lao sơ nhiễm hay lao khởi đầu, lao cấp tính, lao hô hấp sau sơ nhiễm, lao phổi, lao màng phổi và lao ngoài phổi. Cho đến nay, tiêm vaccin vẫn là biện pháp phòng bệnh lao hiệu quả nhất.
Những đối tượng có nguy cơ nhiễm lao
Mặc dù số ca nhiễm lao hiện nay đã giảm so với trước kia, một số nhóm trẻ em vẫn là đối tượng có nguy cơ cao mắc lao, bao gồm:
Bệnh lao lây lan thế nào
Bệnh lao thường lây theo đường hô hấp khi một người bị thể lao hoạt động ho, hắt hơi làm các vi khuẩn lao phát tán trong không khí. Trẻ em hít phải các vi trùng này và bị nhiễm lao. Trẻ em dưới 10 tuổi bị lao phổi hiếm khi lây cho người khác bởi ở những đối tượng này số lượng vi khuẩn trong dịch tiết hô hấp còn khá ít.
Trong đa số trường hợp, trẻ bị phơi nhiễm với lao sẽ không bị phát triển thành thể lao hoạt động. Khi vi khuẩn vào phổi, hệ miễn dịch của cơ thể thể hoạt động để chống lại chúng và ngăn không cho chúng lan rộng (lao sơ nhiễm). Những trẻ này bị nhiễm vi khuẩn lao nhưng không biểu hiện triệu chứng và có thể xác định bằng test phản ứng da. Tuy nhiên, nhóm trẻ này vẫn cần phải được điều trị để đề phòng lao sơ nhiễm phát triển thành dạng hoạt động về sau.
Triệu chứng
Nếu trẻ không được điều trị kịp thời, bệnh lao sẽ tiến triển nặng hơn gây nên các triệu chứng sốt, mệt mỏi, kích thích, ho dai dẳng, kiệt sức, thở nhanh và khó thở, ra mồ hôi ban đêm, sưng hạch bạch huyết, sút cân và chậm phát triển thể chất.
Trong một số rất ít trường hợp với trẻ em dưới 4 tuổi, vi khuẩn lao có thể lan vào máu tuần hoàn và gây nhiễm lao cho một số bộ phận khác của cơ thể. Nguy hiểm nhất là lao màng não, một căn bệnh ảnh hưởng đến não bộ và hệ thần kinh trung ương.
Chẩn đoán
Đối với những trẻ em có nguy cơ cao bị nhiễm lao nên thực hiện một xét nghiệm gọi là test tuberculin trên da để xác định xem có bị nhiễm vi khuẩn lao hay không. Xét nghiệm này được thực hiện tại bệnh viện, bác sỹ sẽ tiêm một lượng nhỏ vi khuẩn lao đã được tinh chế và làm bất hoạt ở vùng da ở mặt trên cánh tay. Nếu trẻ đã bị nhiễm vi khuẩn lao, da trẻ sẽ bị sưng và tấy đỏ tại vị trí tiêm. Bác sỹ sẽ kiểm tra vùng da từ 48 – 72h sau tiêm và đo đường kính của vết sưng đỏ. Test trên da này sẽ xác định được trẻ có bị nhiễm vi khuẩn lao trước kia hay không ngay cả khi trẻ không có biểu hiện triệu chứng gì.
Điều trị
Kiểm soát sự lây lan của bệnh lao
Nếu trẻ đã bị nhiễm vi khuẩn lao, bất kể trẻ có biểu hiện triệu chứng hay không cũng cần thiết phải cách ly trẻ với đối tượng đã lây bệnh cho trẻ. Thông thường, những người đã từng tiếp xúc gần với trẻ là những đối tượng có khả năng lây bệnh cao nhất. Các triệu chứng lao có thể quan sát được chủ yêu ở người lớn là ho dai dẳng, ho ra máu. Những người có test trên da dương tính nên được kiểm tra sức khỏe tổng thể và chụp X quang để xác nhận chẩn đoán.
Nếu phát hiện có người lớn trong gia đình bị nhiễm lao: người đó nên được cách ly càng sớm càng tốt cho tới khi việc điều trị có thể kiểm soát tốt các triệu chứng. Tất cả các thành viên trong gia đình đã từng tiếp xúc với đối tượng đó nên được điều trị bằng isoniazid, bất kể là kết quả test trên da dương tính hay âm tính. Tất cả những người biểu hiện triệu chứng hoặc có hình ảnh chụp X quang bất thường nên được điều trị dưới dạng thể lao hoạt động.
Bệnh lao phổ biến hơn trong những cộng đồng dân cư có thu nhập thấp, do điều kiện sống nghèo nàn, thiếu dinh dưỡng và không được chăm sóc y tế. Bệnh nhân AIDS cũng là nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh lao do sức đề kháng suy yếu.
Nếu không được điều trị, bệnh lao có thể ở dạng không hoạt động trong nhiều năm rồi đột ngột chuyển sang dạng lao tiến triển. Lúc đó, người bệnh không chỉ bị ốm nặng hơn mà còn có thể lây bệnh cho những người xung quanh. Do vậy, việc cho trẻ xét nghiệm xem có bị nhiễm lao hay không là rất quan trọng nếu trẻ đã từng tiếp xúc với người bị bệnh lao và đưa trẻ đến cơ sở y tế để điều trị kịp thời nếu kết quả xét nghiệm dương tính.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Những điều càn biết về bệnh lao phổi
Mùa thu mang đến cảm giác mát mẻ và hương vị ngọt ngào của nhiều loại quả chín mọng. Có một số loại quả mùa thu rất tốt cho người bị táo bón vì chúng chứa nhiều chất xơ, nước và các hợp chất tự nhiên tốt cho đường ruột.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn mạn tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bệnh không chỉ gây đau đớn ở các khớp mà còn có thể lan rộng đến các cơ quan khác như tim, phổi, mắt, và da.
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.