Y tế trường học đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền thông giáo dục sức khỏe để học sinh và các bậc phụ huynh quan tâm thực hiện những biện pháp phòng ngừa nhằm chủ động tránh mắc phải một số bệnh thường gặp tại học đường do sự lây nhiễm qua đường tiêu hóa. Ngoài “thức ăn đường phố”, loại hình “quà vặt cổng trường” cũng là mối nguy cơ làm cho học sinh dễ mắc bệnh vì ăn uống không bảo đảm vệ sinh.
Các bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa thường gặp ở học sinh tại các trường học là tiêu chảy cấp tính, tả, lỵ trực khuẩn, thương hàn, viêm gan A, tay chân miệng và nhiễm giun. Vì vậy, cần biết một số đặc điểm của bệnh và cách phòng bệnh để chủ động việc phòng ngừa.
Bệnh tiêu chảy cấp tính
Thường gặp ở những trẻ em lứa tuổi mầm non và những năm đầu của cấp tiểu học. Bệnh có thể gây tử vong cho trẻ vì bị mất nước và các chất điện giải trầm trọng. Nguyên nhân gây nên bệnh tiêu chảy cấp tính do trẻ ăn uống những loại thức ăn, nước uống không thích hợp, có khả năng dinh dưỡng không tốt; có thể bị nhiễm khuẩn đường ruột do các loại Rotavirus, trực khuẩn E.coli, trực khuẩn lỵ, shigella, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn thương hàn. Ngoài ra, cũng có thể do bị viêm nhiễm ngoài ruột như viêm mũi họng, viêm tai giữa, viêm phổi sau khi bị mắc bệnh sởi hay ho gà.
Yếu tố thuận lợi tạo điều kiện cho bệnh tiêu chảy cấp tính phát triển tại các trường học do điều kiện vệ sinh môi trường kém, khí hậu nóng ẩm giúp vi sinh vật gây bệnh phát triển. Đối với học sinh bị suy dinh dưỡng sẽ dễ dàng mắc bệnh tiêu chảy cấp tính, nếu bị mắc thì bệnh kéo dài hơn và tỷ lệ tử vong cũng cao hơn. Ngoài ra, học sinh mầm non dưới 2 tuổi, bị rối loạn vi khuẩn đường tiêu hóa cũng dễ bị nhiễm bệnh tiêu chảy cấp tính.
Để phòng bệnh tiêu chảy cấp tính ở học sinh, về chế độ dinh dưỡng, cần cho trẻ bú sữa sớm ngay từ khi mới sinh, khi trẻ được 6 tháng thì cho ăn bổ sung với thức ăn bảo đảm đủ chất dinh dưỡng.
Đối với vệ sinh ăn uống, các loại dụng cụ dùng để chế biến và ăn uống của trẻ phải được giữ sạch, thường xuyên tráng nước sôi trước khi sử dụng; không cho trẻ ăn thức ăn bị ôi thiu, nấu chưa chín; rau quả tươi phải rửa sạch, gọt, bóc vỏ; nước uống phải được vô trùng; dặn dò học sinh không được ăn quà vặt ở các gánh hàng rong; các bảo mẫu trước khi chế biến thức ăn và cho trẻ ăn phải rửa sạch bàn tay, đồng thời cũng phải rửa tay sạch cho trẻ, phải cắt ngắn các móng tay; bếp ăn ở trường học nội trú hoặc bán trú phải được thiết kế một chiều và bảo đảm vệ sinh.
Về vệ sinh môi trường, phải sử dụng nguồn nước sạch để ăn uống và sinh hoạt trong trường học; các khu nhà vệ sinh phải bảo đảm yêu cầu; có hệ thống thu gom xử lý rác thải và nước thải. Đồng thời cũng cần chú ý đến các biện pháp diệt côn trùng truyền bệnh, ngăn chặn ruồi nhặng bay vào bám đậu ở những nơi sinh hoạt, học tập của trẻ. Một điều nên nhớ là phải cho trẻ thực hiện đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh theo quy trình và lịch quy định.
Bệnh tả
Đây là bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính do vi khuẩn Vibrio cholerae thường được gọi là phẩy khuẩn tả gây ra. Độc tố của vi khuẩn gây nôn mửa và đi tiêu chảy nặng kèm theo mất nước nhiều. Bệnh dễ có nguy cơ phát triển, lây lan nhanh gây ra dịch bệnh và cũng dễ dàng dẫn đến tử vong nếu không được xử trí điều trị kịp thời, tích cực. Hiện nay, bệnh tả vẫn còn có khả năng lưu hành ở một số vùng và thường xuyên xảy ra những vụ dịch nhỏ. Tuy vậy, phẩy khuẩn tả thường dễ chết dưới tác động của nhiệt từ ánh nắng mặt trời, ở nhiệt độ trên 55oC trong vòng 1 giờ và ở nhiệt độ 80oC sau 5 phút.
Phòng ngừa mắc bệnh tả bằng cách chú ý việc truyền thông giáo dục sức khỏe cho học sinh thực hiện việc ăn chín, uống chín và vệ sinh cá nhân; không nên ăn rau sống, kể cả rau đã được rửa sạch trong thời gian có dịch bệnh lưu hành. Giáo dục và vận động học sinh thường xuyên rửa tay bằng nước sạch với xà phòng, tham gia sử dụng vaccin phòng bệnh tả. Y tế trường học tham mưu và đề xuất việc xây dựng cũng như sử dụng nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn trong nhà trường.
Khi phát hiện học sinh có tiêu chảy và nôn nhiều, y tế trường học nên chủ động bù nước và chất điện giải bằng dung dịch oresol uống, đồng thời đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để có điều kiện bù nước và chất điện giải bằng đường tĩnh mạch. Y tế trường học phải phối hợp tích cực với cơ sở y tế tại địa phương xử lý dịch bệnh kịp thời, hiệu quả, triệt để khi có dịch bệnh xảy ra.
Bệnh lỵ trực khuẩn
Lỵ trực khuẩn là bệnh do trực trùng Shigella thuộc họ Enterobacteriacae - loại vi khuẩn gram âm gây ra. Bệnh thường lưu hành ở những vùng nhiệt đới và ôn đới; có khả năng lưu hành tản phát quanh năm ở nhiều địa phương nhưng thường gia tăng, phát triển vào mùa hè thu; đồng thời có thể làm xảy ra dịch bệnh lỵ trực trùng trong một số nơi.
Phòng ngừa bệnh bằng cách phát hiện sớm học sinh bị mắc bệnh và học sinh lành mang vi khuẩn; đồng thời khi phát hiện thì người bệnh phải cách ly. Các chất thải của bệnh nhân được tẩy uế bằng vôi sống 20%, nước vôi 10%; dụng cụ, quần áo cũng cần sát khuẩn, ngâm dung dịch chloramin 2%; tẩy uế buồng bệnh, phòng y tế trường học bằng dung dịch cresyl 5%.
Cần chú ý đến chế độ dinh dưỡng của bệnh nhân như vào ngày đầu chỉ cho ăn nhẹ, sau đó ăn gần bình thường nhưng không ăn hạn chế quá từ 3 - 4 ngày. Tránh ăn thức ăn nhiều chất xơ, cứng, nhiều chất mỡ và gia vị. Nếu nhân viên nhà trường bị mắc bệnh là cấp dưỡng, nấu ăn, tiếp phẩm thì không nên bố trí tiếp tục ở vị trí này sau khi xuất viện.
Cần chú ý ngăn chặn sự tiếp xúc của côn trùng trung gian truyền tại các bếp ăn trong nhà trường như thực phẩm tươi sống nên cất vào tủ, nơi chế biến thức ăn phải có lưới ngăn ruồi nhặng; không cho học sinh ăn rau sống, quả tươi chưa được xử lý an toàn. Định kỳ có kế hoạch tổ chức biện pháp diệt ruồi nhặng và côn trùng trong nhà trường. Tuyên truyền, vận động học sinh việc giữ gìn vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay với xà phòng, ăn chín, uống sôi; kiểm tra vệ sinh môi trường ở các phòng học, lớp học, phòng nghỉ, nhà ăn, nhà bếp trong trường học.
Mùa thu với không khí mát mẻ là thời điểm lý tưởng để bắt đầu hoặc duy trì thói quen tập luyện thể thao ngoài trời. Tập ngoài trời không chỉ mang lại lợi ích về mặt thể chất, mà còn giúp bạn tận hưởng thiên nhiên, giảm căng thẳng và cải thiện sức khỏe toàn diện. Bài viết này sẽ khám phá những lợi ích của việc tập luyện và gợi ý các bài tập phù hợp để bạn duy trì sức khỏe trong mùa thu.
Ăn nhiều rau từ lâu đã được xem là chìa khóa vàng giúp kiểm soát cân nặng. Tuy nhiên, không phải cứ ăn càng nhiều rau thì càng gầy. Nhiều người dù ăn rau hằng ngày vẫn không giảm được cân, thậm chí còn gặp vấn đề tiêu hóa. Nguyên nhân nằm ở những sai lầm dưới đây...
Mặc dù biện pháp tránh thai thường an toàn khi sử dụng, nhưng vẫn có những tác dụng phụ tiềm ẩn gây nguy hiểm cho sức khỏe ngoài những tác dụng phụ phổ biến như tăng cân hoặc chảy máu bất thường (rong kinh). Cùng tìm hiểu những tác dụng phụ nguy hiểm nhất của thuốc tránh thai qua bài viết sau đây!
Trứng là thực phẩm giàu dinh dưỡng, giàu protein có thể giúp chúng ta no lâu hơn và tăng cường trao đổi chất. Vậy ăn trứng vào thời điểm nào giúp tăng hiệu quả giảm cân?
Ung thư phổi giai đoạn 0, được gọi là ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), có nghĩa là các tế bào bất thường đã được tìm thấy trong niêm mạc đường thở trong một khối u duy nhất, không xâm lấn. Các tế bào này có khả năng lây lan và phát triển thành ung thư.
Bệnh tim mạch là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu. Tại Việt Nam, thống kê cho thấy khoảng 30% các trường hợp tử vong liên quan đến các vấn đề về tim mạch. Điều đáng lo ngại là bệnh không chỉ xuất hiện ở người cao tuổi mà còn ngày càng phổ biến ở giới trẻ do lối sống thiếu lành mạnh. Việc nhận biết sớm các dấu hiệu cảnh báo và áp dụng các biện pháp phòng ngừa là chìa khóa để bảo vệ sức khỏe tim mạch, giảm nguy cơ đột quỵ và duy trì chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Ăn sáng sớm phù hợp với nhịp sinh học của cơ thể và mang lại nhiều lợi ích sức khỏe. Vậy thời điểm ăn sáng có tác động quan trọng đối với quá trình giảm cân không?
Buổi sáng ngủ, dậy tự nhiên thấy nách bị đau, là một dấu hiệu cảnh báo rằng có điều gì đó không ổn. Nguyên nhân cũng có thể đơn giản là do bị căng cơ, chỉ cần chườm đá và nghỉ ngơi là sẽ hết đau, cũng có thể là dấu hiệu của tình trạng nhiễm trùng hoặc nặng hơn như một số bệnh ung thư.