Việc nhiễm virus HPV phổ biến đến mức gần như tất cả nam giới và phụ nữ sẽ nhiễm ít nhất một loại HPV vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ. Theo CDC, gần 80 triệu người Mỹ hiện đang bị nhiễm một số loại HPV. Khoảng 14 triệu người Mỹ, bao gồm cả thanh thiếu niên, sẽ bị nhiễm bệnh mỗi năm. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), HPV lây lan qua tiếp xúc da kề da như quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng với người có virus.
Không có cách nào để biết một người bị nhiễm HPV sẽ phát triển thành ung thư hay không. Tuy nhiên, những người có hệ miễn dịch suy yếu có thể có nhiều nguy cơ gặp các vấn đề sức khỏe nếu họ nhiễm virus.
Tình trạng phổ biến khi trẻ trai nhiễm virus HPV
Mụn cóc sinh dục
Một số ít các type virus HPV nguy cơ thấp là nguyên nhân gây ra mụn cóc sinh dục, trong đó 90% có liên quan đến virus HPV type 6 và 11. Ở nam giới, mụn cóc có thể xuất hiện trên dương vật, bìu, tinh hoàn, hậu môn, bẹn hoặc đùi.
Trong hầu hết các trường hợp, mụn cóc sinh dục không gây ra nguy cơ lớn cho sức khỏe, mặc dù chúng có thể khó coi và khiến người mắc bị xấu hổ. Một số người sẽ tự giải quyết hoặc đến các cơ sở y tế để loại bỏ các mụn cóc sinh dục này và nguy cơ tái phát là khá phổ biến.
Bệnh ung thư
Tuy nhiên, các chủng virus HPV có thể gây ra mụn cóc sinh dục không giống với các chủng có thể gây ung thư. Hầu hết những người bị nhiễm các chủng có nguy cơ ung thư sẽ không biết được mình đã nhiễm virus.
Các chủng virus HPV gây ung thư có thể tồn tại trong cơ thể một cách bình thường nhiều năm hoặc khiến các tế bào bình thường chuyển thành ung thư. Nguy cơ ung thư do virus HPV là khá cao và tỷ lệ này ở người nhiễm HIV cũng tương tự.
Ở nam giới nhiễm HPV và HIV, tỷ lệ mắc ung thư hậu môn là khoảng 78 trên 100.000 người hoặc có thể lên tới 168 trên 100.000 người trong khi tỷ lệ này ở trong cộng đồng là 2 trên 100.000 người.
Vaccine HPV có thể làm giảm nguy cơ phát triển một số bệnh ung thư ở cả nam và nữ.
Vaccine phòng ngừa virus gây u nhú ở người (HPV) ban đầu được sản xuất và tiêm phòng chủ yếu cho các bé gái 10 tuổi trở lên. Tuy nhiên ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các bé trai cũng có thể nhận được các lợi ích tương tự như các bé gái khi tiêm vaccine này. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đối với nam giới, các lợi ích thu được cũng như các tác dụng phụ có thể gặp phải từ việc tiêm vaccine HPV đều tương đương như ở nữ giới. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vaccine HPV cũng an toàn và dung nạp tốt khi sử dụng cho các bé trai. Tác dụng phụ phổ biến nhất là ngất xỉu sau khi tiêm, và mặc dù hiện vẫn chưa chắc chắn được những tác dụng phụ này là do thành phần của vaccine hay do các thức tiêm phòng, tuy nhiên tác dụng phụ này không phải là một vấn đề quá đáng ngại và thường không kéo dài.
Gardasil-9 là một loại vaccine ngăn ngừa 9 type virus HPV nguy cơ cao có liên quan đến ung thư, chủ yếu là ung thư cổ tử cung cũng như các loại ung thư hậu môn, âm đạo, âm hộ, dương vật, miệng, amidan và họng.
Khi Gardasil ban đầu được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt lần đầu tiên vào năm 2006, nó chỉ được khuyến cáo cho trẻ em gái và phụ nữ từ 9 đến 26 tuổi. Đến năm 2011, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến cáo loại vaccine này nên được tiêm cho các bé trai và nam giới từ 9 đến 26 tuổi. Vào năm 2018, CDC tiếp tục mở rộng khuyến nghị để nam giới và phụ nữ từ 27 đến 45 tuổi có thể lựa chọn tiêm phòng HPV sau khi tham khảo ý kiến của các bác sĩ.
FDA và CDC Mỹ đã quyết định mở rộng việc sử dụng Gardasil cho các bé trai dựa trên các nghiên cứu cho thấy rằng virus HPV làm tăng nguy cơ ung thư hậu môn gấp 17 đến 20 lần ở nam giới và phụ nữ, đồng thời nguy cơ này còn tăng lên tới 70 lần ở nam giới quan hệ tình dục đồng giới.
Hơn nữa, hơn 30% trường hợp ung thư dương vật được biết là có liên quan đến hai type virus HPV cụ thể là type 16 và 18. Đây là hai trong số các type virus HPV được vaccine Gardasil-9 nhắm tới để tiêu diệt bên cạnh và những chủng virus HPV có liên quan đến các bệnh ung thư cổ tử cung, hậu môn và các bệnh ung thư liên quan đến HPV khác. Hơn nữa, virus lây lan qua quan hệ tình dục, có nghĩa là nam giới bị nhiễm virus HPV có thể truyền sang nam hoặc nữ khác. Bằng cách tiêm phòng trước cho các bé trai chưa bước vào tuổi hoạt động tình dục, chúng ta có thể giảm sự lây lan của virus và giảm nguy cơ ung thư hậu môn, dương vật và ung thư hầu họng (miệng và họng) của các bé trai sau này.
Vaccine Gardasil 9 bảo vệ cơ thể chống lại 7 type virus HPV nguy cơ cao liên quan đến ung thư (type 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58) và 2 type virus HPV có nguy cơ thấp liên quan đến mụn cóc sinh dục (type 6 và 11)
Khuyến nghị tiêm ngừa vaccine HPV
Các khuyến nghị của CDC về việc tiêm phòng HPV là giống nhau đối với trẻ trai và trẻ gái. Độ tuổi lý tưởng để tiêm phòng vaccine Gardasil-9 là từ 11 đến 12, khi hầu hết trẻ chưa quan hệ tình dục. Vaccine cũng có thể được tiêm cho trẻ em dưới 9 tuổi đã bị tấn công tình dục hoặc có tiền sử lạm dụng tình dục. Bất kỳ ai từ 26 tuổi trở lên cũng nên được tiêm chủng nếu trước đó họ chưa tiêm phòng vaccine HPV đầy đủ.
Tiêm phòng vaccine HPV khi 10 tuổi là tối ưu nhất vì khi đó mọi người ít có khả năng tiếp xúc với virus hơn và thường có phản ứng miễn dịch tốt hơn với vaccine.
Tiêm phòng HPV có hiệu quả cao ở những người chưa tiếp xúc với các type HPV mà Gardasil-9 bảo vệ chống lại.
Liều lượng khuyến cáo của Gardasil-9 thay đổi theo độ tuổi.
Theo CDC, virus HPV phổ biến đến mức gần như tất cả nam giới và phụ nữ có quan hệ tình dục sẽ nhiễm virus này vào một thời điểm nào đó trong đời.
Chống chỉ định
Gardasil-9 không nên được tiêm ngừa cho các trường hợp:
Phản ứng phụ
Trong các thử nghiệm lâm sàng, vaccine Gardasil-9 được chứng minh là an toàn và hiệu quả, mặc dù nó có thể gây ra các tác dụng phụ nhẹ, thoáng qua ở một số người, bao gồm:
Tạm kết
HPV là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục phổ biến. Virus HPV thường sẽ tự biến mất, hoặc tổn tại trong cơ thể mà không gây bệnh, tuy nhiên nguy cơ ung thư và một số bệnh từ virus này vẫn có thể xảy ra. Hãy tận dụng mọi cơ hội để có thể tiêm vaccine này cho trẻ cả trẻ trai và trẻ gái để giảm thiểu tối đa mọi nguy cơ bệnh tật liên quan đến HPV.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Nhiễm HPV và mang thai
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh
Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.
Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.
Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.
Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.