Hạ thân nhiệt khi thân nhiệt dưới 36,50C đo ở nách.Đây là một biểu hiện của dấu hiệu nặng có thể gây tử vong và thường gặp trong các trường hợp bị nhiễm trùng nặng. Theo các nhà khoa học, các mức độ hạ thân nhiệt đo ở nách có thể chia ra 3 loại: hạ thân nhiệt nhẹ khi thân nhiệt từ 36,50C đến 36,40C, hạ thân nhiệt trung bình khi thân nhiệt từ 350C đến 35,90C, hạ thân nhiệt nặng khi thân nhiệt dưới 350C. Việc xử trí hạ thân nhiệt được thực hiện bằng nguyên tắc sử dụng phương pháp vật lý.
Ở tuyến xã, phường, thị trấn: Phải nhận biết nguy cơ hạ thân nhiệt ở nhũng đối tượng trẻ sơ sinh cần được lưu ý như: trẻ nhẹ cân, trẻ sinh non, trẻ có hồi sức khi sinh, trẻ không khỏe do nhiễm khuẩn nặng; trẻ không nằm với mẹ, trẻ bú sữa kém, trẻ ở nơi có thời tiết lạnh khi sinh... Cần phát hiện kịp thời dấu hiệu hạ thân nhiệt bằng cách sờ bàn tay và bàn chân trẻ sơ sinh thấy lạnh, theo dõi sờ bàn chân trẻ mỗi giờ trong 2 giờ đầu, sau đó mỗi 4 giờ một lần trong ngày đầu sau sinh. Đồng thời phải đo thân nhiệt ít nhất 1 lần trong ngày đầu sau sinh, đối với những trẻ có nguy cơ cần kiểm tra thân nhiệt thường xuyên hơn cứ mỗi 6 giờ một lần.
Biện pháp xử trí hạ thân nhiệt được thực hiện bằng cách hướng dẫn người mẹ giữ ấm cho trẻ sơ sinh với phương pháp tiếp xúc da kề da, phương pháp kangaroo hoặc mặc thêm áo tã, đội mũ, mang tất vớ, quấn khăn và đắp chăn ấm cho trẻ... hay hướng dẫn các phương pháp ủ ấm khác an toàn khác cho trẻ.
Khuyến khích người mẹ cho trẻ bú sớm, bú nhiều lần; nếu trẻ không thể bú được, cho trẻ uống sữa mẹ qua thìa. Nếu thân nhiệt sau 1 giờ can thiệp biện pháp vật lý không trở về mức độ bình thường hoặc có thể kèm theo bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào khác thì cần chuyển ngay trẻ lên tuyến trên. Lưu ý phải chuyến tuyến an toàn sau khi tiêm liều kháng sinh đầu cho trẻ, cố gắng giữ ấm và cho trẻ bú hoặc uống sữa mẹ trong suốt quá trình chuyển lên tuyến trên.
Ở tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố: Thực hiện việc phát hiện và xử trí như ở tuyến dưới, đồng thời khám lâm sàng, làm xét nghiệm đường huyết và các xét nghiệm cơ bản khác để chẩn đoán và điều trị theo nguyên nhân, nhất là nguyên nhân nhiễm khuẩn. Trong trường hợp trẻ sơ sinh bị hạ thân nhiệt nặng, phải sử dụng các phương tiện ủ ấm sẵn có như lồng ấp, giường sưởi ấm...; đồng thời phát hiện và điều trị các rối loạn kèm theo, đặc biệt là tình trạng hạ đường huyết. Lưu ý việc chuyển trẻ sơ sinh lên y tế tuyến trên khi vượt quá khả năng điều trị hoặc tình trạng bệnh lý không được cải thiện sau 2 ngày điều trị.
Ở tuyến tỉnh, thành phố thuộc trung ương: Thực hiện việc phát hiện và xử trí như ở tuyến dưới, đồng thời làm thêm các xét nghiệm cần thiết để xác định nguyên nhân gây bệnh như cấy máu và các loại dịch bệnh phẩm khác. Điều trị tích cực nguyên nhân trong trường hợp nhiễm khuẩn nặng.
Tăng thân nhiệt
Tăng thân nhiệt khi thân nhiệt từ 37,50C trở lên đo ở nách. Tăng thân nhiệt sơ sinh là một dấu hiệu nặng, có thể gây tử vong và thường gặp trong các trường hợp nhiễm khuẩn nặng, đặc biệt trong bệnh cảnh viêm màng não mủ. Thân nhiệt đo ở nách có thể tăng theo mức độ từ nhẹ đến nặng: tăng nhẹ khi nhiệt độ từ 37,60C đến 380C; tăng trung bình khi nhiệt độ từ 380C đến 390C; tăng nặng khi nhiệt độ trên 390C. Việc xử trí can thiệp tăng thân nhiệt được thực hiện theo nguyên tắc sử dụng phương pháp vật lý và phương pháp dùng thuốc.
Ở tuyến xã, phường, thị trấn: Phải nhận biết ngay nguy cơ tăng thân nhiệt ở những trẻ sơ sinh nhẹ cân, trẻ không được khỏe do nhiễm khuẩn nặng, có thời tiết nóng bức... Cần phát hiện kịp thời dấu hiệu tăng thân nhiệt như sờ bàn tay và bàn chân trẻ sơ sinh thấy nóng. Đo thân nhiệt bằng nhiệt kế ở những trẻ sơ sinh có nguy cơ, cần kiểm tra thân nhiệt thường xuyên mỗi 6 giờ một lần.
Xử trí trường hợp trẻ sơ sinh tăng thân nhiệt bằng cách đưa trẻ ra khỏi nguồn nóng, nằm ở phòng thoáng khí, mặc đồ thoáng mát, không đắp chăn, có thể cởi áo và tã lót nếu cần thiết...; khuyến khích người mẹ nên cho trẻ bú sớm và bú nhiều lần hơn, nếu trẻ không thể bú được thì vắt sữa mẹ và cho trẻ uống sữa mẹ bằng thìa. Nếu thân nhiệt của trẻ sau thời gian 1 giờ không trở về mức bình thường hoặc kèm theo bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào khác, cần phải chuyển lên tuyến trên ngay; phải chuyển tuyến an toàn sau khi tiêm liều thuốc kháng sinh đầu. Lưu ý không dùng ngay thuốc hạ sốt để hạ thân nhiệt.
Ở tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố: Thực hiện việc phát hiện và xử trí như tuyến dưới; đồng thời cũng phải khám lâm sàng, làm xét nghiệm đường huyết và các xét nghiệm cơ bản để chẩn đoán và điều trị theo nguyên nhân xác định, nhất là nguyên nhân nhiễm khuẩn. Thận trọng khi dùng thuốc hạ sốt, nếu trẻ sơ sinh tăng thân nhiệt nặng có thể dùng thuốc hạ sốt paracetamol với liều lượng 10 đến 15 mg/kg cân nặng mỗi lần, có thể dùng lại sau 6 giờ khi cần thiết. Đồng thời điều trị các rối loạn kèm theo, đặc biệt là tình trạng mất nước. Nên chuyển bệnh lên tuyến trên nếu vượt quá khả năng điều trị hoặc tình trạng bệnh không cải thiện.
Ở tuyến tỉnh, thành phố thuộc trung ương: Thực hiện việc phát hiện và xử trí như tuyến dưới, đồng thời làm thêm các xét nghiệm để xác định nguyên nhân như cấy máu và các dịnh bệnh phẩm khác. Điều trị theo nguyên nhân được chẩn đoán xác định, nhất là trường hợp bị nhiễm khuẩn nặng.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tác dụng phụ của paracetamol
Mùa xuân đến, mang theo không khí ấm áp và sức sống mới cho vạn vật. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm giao mùa, khí hậu biến đổi thất thường, tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn, virus và mầm bệnh sinh sôi phát triển.
Ngày 2 tháng 4 hàng năm, thế giới cùng hướng về Ngày Thế Giới Nhận Thức về Tự Kỷ – một sự kiện do Liên Hợp Quốc khởi xướng nhằm kêu gọi sự quan tâm sâu sắc hơn đến rối loạn phổ tự kỷ (ASD).
Mùa xuân là thời điểm giao mùa, khí hậu thất thường, hanh khô, độ ẩm thấp, dễ gây ra những ảnh hưởng không tốt đến làn da nhạy cảm của trẻ nhỏ.
Tuổi mãn kinh không chỉ gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe sinh lý nữ, mà còn ảnh hưởng đến làn da. Chị em phụ nữ nên lưu ý điều gì khi chăm sóc da tuổi ngoài 40?
Giao mùa là thời điểm chuyển tiếp giữa các mùa trong năm, kéo theo sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Đối với người cao tuổi, giai đoạn này thường tiềm ẩn nhiều nguy cơ sức khỏe do hệ miễn dịch suy giảm và cơ thể dần lão hóa.
Một nghiên cứu mới cho thấy, hoạt động thể chất vừa phải như đi bộ nhanh, yoga, làm vườn… mỗi ngày có thể giúp giảm nguy cơ tử vong.
Các vấn đề dạ dày khi chạy bộ là một trong những nguyên nhân phổ biến gây khó chịu cho người chạy. Bạn có thể gặp tình trạng co thắt, đau bụng dẫn đến tiêu chảy trong khi chạy.
Hầu hết mọi người có thể ăn chanh hoặc uống nước chanh một cách an toàn nhưng vì chanh có tính acid nên nó có nguy cơ gây bất lợi cho một số trường hợp cụ thể. Vậy nhóm người nào nên hạn chế ăn chanh?