Khởi đầu từ những nghiên cứu trên động vật
TS. Jose Ignacio Mayordomo, cùng nhóm nghiên cứu Đại học Pittsburgh (bang Pennsylvania, Hoa Kỳ) đã thực hiện tiêm vào chuột với các loại tế bào ung thư khác nhau và để các khối u phát triển trong một đến hai tuần. Các nhà khoa học phân lập tế bào tua, nuôi cấy chúng với một số yếu tố tăng trưởng, và cho tiếp xúc với các peptide (các axít amin mang thông tin về màng tế bào khối u), để giúp chúng mang thông tin từ khối u truyền đến hệ thống miễn dịch. Sau đó họ tiêm những tế bào tua đã được trình diện thông tin này trở lại chuột mang khối u cứ mỗi bốn đến bảy ngày. Trong vòng 7 - 10 ngày sau lần tiêm đầu tiên, các khối u ngừng phát triển. Sử dụng phương pháp điều trị này, 80% số chuột mắc ung thư biểu mô phổi Lewis và 90% chuột bị sarcoma đã được chữa khỏi.
BS. M. Krishnan Nair, Giám đốc sáng lập Trung tâm Ung thư tại Trivandrum, Ấn Độ, thực hiện một nghiên cứu tương tự. BS. Nair và nhóm của ông nghiên cứu về khối u phổi ác tính, di căn (các khối u mới di căn từ khối u đầu tiên) ở chuột, sau đó phẫu thuật cắt bỏ khối u ban đầu. Những con chuột này sau đó được điều trị bằng các tế bào tua đã được thao tác một cách tương tự như nghiên cứu của Mayordomo. Trong 7 con vật được điều trị, 4 con vật không quan sát thấy khối u phổi, hai trong số còn lại có ít hơn 5 khối u nhỏ, và một con có mười lăm khối u nhỏ. Trong khi đó, số lượng những khối u nhỏ ở chuột không được điều trị bằng liệu pháp thế bào tua, quá nhiều không thể đếm, chiếm khoảng 3/4 trọng lượng của phổi.
Tại Đại học Stanford (California, Mỹ), BS. Frank J. Hsu và các đồng nghiệp đã tiên phong trong việc sử dụng liệu pháp tế bào tua điều trị ung thư ở người. Họ phân lập tế bào tua từ máu của bốn bệnh nhân bị u lympho tế bào B. Những bệnh nhân này trước đó đã được điều trị bằng hóa trị liệu. Tế bào tua được nuôi cấy và xử lý với kháng nguyên khối u (thông tin màng của tế bào khối u) có nguồn gốc từ các khối u của bệnh nhân. Các nhà nghiên cứu tiêm các tế bào tua theo đường tĩnh mạch 4 lần. Hai tuần sau mỗi lần tiêm tế bào tua, họ cũng tiêm kháng nguyên khối u dưới da của bệnh nhân, cùng với một loại protein giúp kích thích đáp ứng miễn dịch. Tất cả bệnh nhân phát triển đáp ứng tế bào T có thể đo được sau một hoặc hai lần chủng ngừa. Sự thành công của quá trình điều trị có thể đo lường được - đó là một đáp ứng một phần, một đáp ứng nhỏ, ổn định bệnh ở ba bệnh nhân với sự tiến triển của bệnh có thể đo lường được và đáp ứng hoàn toàn ở bệnh nhân có trình trạng bệnh nhẹ nhất.

BS. Gerald P. Murphy và nhóm của ông tại Quỹ Ung thư thuộc BV. Tây Bắc Thái Bình Dương ở Seattle (Mỹ) đã thử nghiệm việc sử dụng các tế bào tua ở những bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt tiến triển. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu này đều bị ung thư tuyến tiền liệt và không đáp ứng với các liệu pháp thông thường, bao gồm cả điều trị nội tiết tố. Họ nuôi cấy tế bào bạch cầu đơn nhân của bệnh nhân (đại thực bào) với các nhân tố tăng trưởng và các mẫu protein nhỏ được tìm thấy trên bề mặt của các tế bào khối u tuyến tiền liệt. Sau khi “giăng mồi” các tế bào tua, các nhà nghiên cứu tiêm các tế bào này trở lại bệnh nhân thông qua phương pháp nhỏ giọt tĩnh mạch. Họ thực hiện hai nghiên cứu. Hơn 27% bệnh nhân được nghiên cứu tham gia cả hai thử nghiệm lâm sàng cho thấy một số tiến triển rõ rệt, và tình trạng bệnh ở 33% bệnh nhân khác đã ổn định.
Ngoài ung thư hạch bạch huyết và ung thư tuyến tiền liệt, ung thư biểu mô ác tính đã được điều trị thành công bằng cách sử dụng liệu pháp tế bào tua. Trong một nghiên cứu trên người gần đây của nhóm BS. Frank O. Nestle tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ, các tế bào tua được sử dụng để điều trị 16 bệnh nhân bị ung thư biểu mô ác tính di căn. Các đáp ứng mục tiêu được quan sát thấy trong 5/16 bệnh nhân. Có hai đáp ứng hoàn toàn và ba đáp ứng một phần đối với di căn trong một số cơ quan, bao gồm da, phổi và tuyến tụy. Các nhà nghiên cứu theo dõi các bệnh nhân trong 15 tháng và nhận thấy không có bất cứ tác dụng phụ tự miễn dịch tiềm năng nào của liệu pháp ở tất cả các bệnh nhân.
Các tác giả kết luận rằng tiêm chủng với tế bào tua có nguồn gốc từ cơ thể của chính bệnh nhân là một cách tiếp cận an toàn và đầy hứa hẹn trong điều trị u ác tính di căn.
Tại Việt Nam, những nghiên cứu, ứng dụng việc ghép tế bào gốc đã bắt đầu từ những năm 1995, được đặc biệt đẩy mạnh từ sau năm 2007 bởi hiệu quả điều trị nhiều bệnh lý liên quan đến ung thư máu, COPD, tim mạch, viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường… Hiện trên cả nước có hơn hai mươi viện và bệnh viện chuyên ngành thực hiện ghép tế bào gốc ngoại vi tự thân trong điều trị các bệnh lý về huyết học đối với hàng ngàn bệnh nhân.
Tế bào gốc (stem cell) là các tế bào sinh học có khả năng biệt hoá thành các tế bào khác, từ đó phân bào để tạo ra nhiều tế bào gốc hơn. Chúng được tìm thấy trong các sinh vật đa bào.Tế bào gốc dùng để chỉ các tế bào chưa biệt hóa để đảm nhiệm chức năng, vai trò cụ thể. Chẳng hạn, một tế bào xương không thể “đẻ” ra tế bào xương khác, nhưng tế bào gốc xương đảm nhận nhiệm vụ đó. Bởi thế, tế bào gốc có tiềm năng phát triển thành hầu hết bất kỳ loại tế bào nào tùy thuộc môi trường yêu cầu.
Trong cơ thể sống, có thể lấy tế bào gốc từ hai nguồn chính gồm mô cơ thể đã trưởng thành và trong phôi giai đoạn sớm. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu phương thức phát triển tế bào gốc từ các tế bào khác bằng kỹ thuật “lập trình lại” gien.
Ở người, có ba nguồn đã được biết của các tế bào gốc trưởng thành có khả năng sinh ra thế hệ tế bào sau giống như nó: tủy xương, được lấy từ phương thức khoan vào xương (điển hình là xương đùi hay xương chậu); mô mỡ (gồm các tế bào mỡ) được lấy bằng phương pháp hút mỡ. Cuối cùng là máu, trong đó máu được rút ra từ người hiến tặng, sau đó đi qua máy tách chiết các tế bào gốc và trả lại các phần khác của máu cho người hiến. Tế bào gốc cũng có thể được lấy từ máu dây rốn ngay sau khi sinh.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Phẫu thuật điều trị ung thư - Phần 1, Phẫu thuật điều trị ung thư - Phần 2
Viêm não tự miễn là bệnh xảy ra do hệ miễn dịch tấn công nhầm các tế bào não. Các triệu chứng của viêm não tự miễn có thể khác nhau nhưng có thể bao gồm mất trí nhớ, thay đổi suy nghĩ, thay đổi hành vi và co giật. Cùng tìm hiểu về bệnh lý này qua bài viết sau đây!
Xơ vữa động mạch xảy ra khi các mảng bám mỡ tích tụ dọc theo thành động mạch, khiến động mạch bị hẹp, hạn chế lưu lượng máu đến tim và các bộ phận khác của cơ thể, dễ dẫn tới nguy cơ đột quỵ.
Mùa thu mang đến thời tiết mát mẻ và dễ chịu, nhưng sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm dao động và sự gia tăng các dị nguyên như phấn hoa, nấm mốc lại khiến đây trở thành mùa cao điểm của các bệnh dị ứng. Dị ứng giao mùa gây khó chịu, mệt mỏi và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Bài viết này sẽ hướng dẫn cách nhận biết, phòng ngừa và giảm triệu chứng dị ứng để có một mùa thu khỏe mạnh.
Dùng nước gạo lên men để làm đẹp tóc là một phương pháp được áp dụng từ lâu. Việc xả tóc bằng nước gạo lên men mang lại nhiều lợi ích vượt trội hơn so với nước vo gạo thông thường.
Mùa đông với không khí lạnh và khô hanh khiến trẻ nhỏ dễ mắc các bệnh về đường hô hấp. Khi thời tiết chuyển lạnh, trẻ thường ở trong nhà nhiều hơn, tạo điều kiện cho vi khuẩn và virus lây lan nhanh chóng. Hiểu biết về các bệnh này, từ nguyên nhân, triệu chứng đến cách phòng ngừa, là chìa khóa để cha mẹ bảo vệ sức khỏe trẻ nhỏ, giúp các bé vượt qua mùa đông an toàn và khỏe mạnh.
Hệ xương khớp đóng vai trò nền tảng trong việc duy trì khả năng vận động, giữ tư thế, và đảm bảo chất lượng cuộc sống. Hệ thống này bao gồm xương, sụn, dây chằng, gân và cơ bắp – chúng phối hợp nhịp nhàng đảm bảo các chức năng di chuyển linh hoạt và chịu đựng áp lực cơ học hàng ngày.
Mùa thu với không khí mát mẻ là thời điểm lý tưởng để bắt đầu hoặc duy trì thói quen tập luyện thể thao ngoài trời. Tập ngoài trời không chỉ mang lại lợi ích về mặt thể chất, mà còn giúp bạn tận hưởng thiên nhiên, giảm căng thẳng và cải thiện sức khỏe toàn diện. Bài viết này sẽ khám phá những lợi ích của việc tập luyện và gợi ý các bài tập phù hợp để bạn duy trì sức khỏe trong mùa thu.
Ăn nhiều rau từ lâu đã được xem là chìa khóa vàng giúp kiểm soát cân nặng. Tuy nhiên, không phải cứ ăn càng nhiều rau thì càng gầy. Nhiều người dù ăn rau hằng ngày vẫn không giảm được cân, thậm chí còn gặp vấn đề tiêu hóa. Nguyên nhân nằm ở những sai lầm dưới đây...