Khái niệm về chứng COVID kéo dài – hay Hậu COVID để chỉ ra những vấn đề gặp phải trong khoảng thời gian hồi phục sau mắc COVID-19. Theo định nghĩa của WHO, tình trạng hậu COVID-19 xảy ra ở những người có tiền sử nhiễm SARS-CoV-2, thường là 3 tháng kể từ khi bắt đầu mắc COVID-19 với các triệu chứng và kéo dài ít nhất 2 tháng mà không thể giải thích bằng chẩn đoán khác [3].
Hậu COVID đang là chủ đề nổi bật trên khắp các phương diện truyền thông, đặc biệt các mạng xã hội. Tuy nhiên cũng có rất nhiều thông tin không chính thống, quá phóng đại về tác hại hậu Covid, tạo ra sự lo lắng thái quá của chính người đọc và phần nào làm tăng thêm những vấn đề về sức khỏe tâm thần – một khía cạnh sức khỏe vốn đã bị ảnh hưởng không hề nhỏ trong suốt thời gian đại dịch.
Những thống kê khoa học về Hậu COVID-19
Đã có nhiều nghiên cứu thống kê về tình trạng gặp phải của Hậu COVID, ở cả trên thế giới và tại Việt Nam. Có sự dao động tùy theo từng vùng và tình trạng bệnh nặng nhẹ.
Theo nghiên cứu của Androula Pavli và các cộng sự [1], tỉ lệ mắc phải hậu COVID hiện nay rơi vào khoảng 10-35%, và tỉ lệ này có thể tăng lên 85% ở những bệnh nhân từng mắc mức độ nặng phải nhập viện. Một số triệu chứng điển hình được báo cáo bao gồm: mệt mỏi (17,5-72%), khó thở (10-40%), các vấn đề tâm thần (26%), đau tức ngực (22%), rối loạn khứu giác (11%). Hầu hết các triệu chứng đều có tiên lượng tốt, và bệnh nhân hồi phục mà không để lại các vấn đề gì về sức khỏe.
Nghiên cứu gộp của Sanaz Shanbehzadeh và các cộng từ 34 nghiên cứu cho thấy các vấn đề sức khỏe phổ biến nhất là mệt mỏi (từ 28% đến 87%), đau cơ (4,5% đến 36%), đau khớp (6,0% đến 27%), giảm khả năng thể chất và các hoạt động thông thường hàng ngày (15% đến 54%). Các vấn đề sức khỏe tâm thần thường gặp là lo lắng (từ 6,5% đến 63%), trầm cảm (4% đến 31%) và rối loạn căng thẳng (12,1% đến 46,9%).
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tỷ lệ Hậu COVID gặp khoảng 10-20% [3]. Tỉ lệ này tương tự như các nghiên cứu đã đề cập, và con số này không cao như nhiều tài liệu công bố. Bên cạnh đó, các triệu chứng có thể kéo dài 1 vài tuần, sau đó hồi phục và không để lại các hậu quả tiêu cực. Điều này có thể cho thấy, không phải bất cứ ai sau khi mắc COVID-19 cũng đều gặp phải các rối loạn về sức khỏe, khi con số về tỉ lệ mắc phải thấp hơn mong đợi so với những con số được công bố trên nhiều phương diện khác. Khả năng phục hồi chung là hoàn toàn có thể, trong khi các vấn đề sức khỏe kéo dài lâu hơn vẫn cần phải được nghiên cứu sâu hơn nữa.
Sức khỏe tâm thần có ảnh hưởng rất lớn
Sự mệt mỏi về mặt tinh thần là vấn đề được đề cập đến khá nhiều. Theo nghiên cứu của Yan Xie và các cộng sự [4] theo dõi trong vòng 1 năm cho gần 154 nghìn người bệnh sống sót sau 30 ngày bị nhiễm so với nhóm chứng không bị bệnh (khoảng 5,5 triệu người), cho thấy những người mắc COVID-19 có nguy cơ rối loạn lo âu tăng 1,35 lần, rối loạn trầm cảm tăng 1,39 lần, căng thẳng tăng 1,38 lần, sử dụng thuốc chống trầm cảm tăng 1,55 lần và sử dụng benzodiazepin tăng 1,65 lần, dùng giảm đau nhóm opioid tăng 1,76 lần, thuốc rối loạn giấc ngủ tăng 1,4 lần và nhiều rối loạn khác. Một điều đáng nói ở đây là các triệu chứng về tâm thần gia tăng đáng kể, nhưng cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng có tới 2/3 các dấu hiệu được người bệnh tự khuếch đại lên rằng bản thân đang mắc, trong khi thực sự là không phải như vậy.
Tại Việt Nam, nghiên cứu sơ bộ cho thấy có tới 33% bệnh nhân gặp phải các vấn đề về thần kinh tâm thần hậu COVID. Các vấn đề tâm thần thường gặp nhất trong nhóm này là rối loạn lo âu, trầm cảm, rối loạn stress sau sang chấn, rối loạn giấc ngủ, rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Trẻ em mắc Covid-19 có nguy cơ thấp hơn, chỉ 4%, trong đó thường gặp nhất là mệt mỏi (3%) và kém tập trung (2%). Rất nhiều yếu tố ảnh hưởng lên điều này, bên cạnh sự truyền đạt từ những người xung quanh, xu hướng từ người mắc nói chung và truyền thông thông tin. Không thể phủ nhận những tiêu cực tới sức khỏe là có, nhưng những điều này vô hình trung tạo nên những ám thị riêng, ảnh hưởng thêm tới sức khỏe tâm thần của người bệnh.
Bất cứ trạng thái quá mức nào cũng đều không tốt. Quá lo lắng về các biến chứng có thể gặp phải sau thời gian mắc COVID-19 có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện hay làm trầm trọng thêm các triệu chứng như rối loạn giấc ngủ, trầm cảm,… Thực trạng hiện nay, không ít trường hợp rơi vào tình trạng “chưa khỏi COVID đã mắc Hậu COVID”. Thậm chí vì sợ biến chứng hậu COVID mà có những trường hợp mắc bệnh dù không có bệnh nền, đã tiêm đủ liều vaccine, không triệu chứng vẫn lo lắng đến rối loạn ngủ, luôn đòi hỏi phải được điều trị tại bệnh viện. Nhiều trường hợp gia đình lo sợ con trẻ mình có thể gặp phải các triệu chứng của Hậu COVID nhất là hội chứng MIS-C đã tự tìm các đơn thuốc từ trên mạng rồi tích trữ, cho con uống đủ loại thuốc, thực phẩm chức năng, xông hơi… nhằm điều trị, tăng sức đề kháng.
Thực tế cho thấy, đối với lứa tuổi trẻ nhỏ thường ít có các triệu chứng Hậu COVID hơn so với người trưởng thành. Thậm chí, nhiều trẻ em đi khám vì bố mẹ lo lắng. Các khảo sát cho thấy phần lớn trẻ em khám Hậu COVID đa phần đều không cần chụp chiếu, lấy máu xét nghiệm vì trẻ chỉ mắc ở mức độ rất nhẹ, thời gian mắc ngắn, khám không thấy dấu hiệu bất thường và trẻ vẫn sinh hoạt tốt. Đối với người lớn, đôi khi sự lo lắng thái quá được xác nhận khi đi khám, và sau khi được thăm khám giải thích, nhiều trường hợp cảm thấy bình thường và không cần điều trị gì.
Đừng quá lo lắng để biến mình thành nạn nhân
Rõ ràng không phải tất cả người mắc COVID đều gặp phải Hậu COVID sau này, và thậm chí các vấn đề của Hậu COVID cũng chưa đến mức cảnh báo. Việc tự lo lắng thái quá có thể kéo theo các dấu hiệu vấn đề về tâm thần, ảnh hưởng tới sức khỏe và quá trình hồi phục của bản thân người bệnh sau khi khỏi bệnh.
Các chuyên gia đưa ra lời khuyên rằng điều quan trọng nhất trong thời gian này là duy trì một sức khỏe tốt cả về thể chất và tinh thần, thoải mái tư tưởng và trí óc. Tất nhiên, vẫn cần theo dõi các triệu chứng sau khi khỏi bệnh để có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường và xử trí kịp thời. Tuy nhiên, giữ cho tinh thần thoải mái chính là cách tốt nhất để hồi phục sức khỏe, nhất là sau một khoảng thời gian mắc COVID-19 khó khăn.
Trong thời gian này, hãy duy trì một chế độ ăn uống lành mạnh với đầy đủ protein, bổ sung chất béo lành mạnh, ăn nhiều trái cây và rau xanh cùng bổ sung các vitamin và khoáng chất. Bên cạnh đó, duy trì thể lực bằng cách vận động thường xuyên, tập thể dục đều đặn, giữ cho cơ thể hoạt động để tránh mệt mỏi cho bản thân. Nghỉ ngơi, thư giãn đầu óc với các bài tập thở, thiền và tránh các sản phẩm kích thích như rượu bia, thuốc lá…
Lời kết
Hậu COVID có thể gây ra những vấn đề với sức khỏe, nhưng chúng thường không để lại hậu quả nghiêm trọng và có thể tự hồi phục. Lời khuyên từ các chuyên gia là không nên quá lo lắng về giai đoạn này, theo dõi sức khỏe bản thân cùng một chế độ dinh dưỡng phù hợp hàng ngày. Tuân thủ hướng dẫn y tế chính thống từ Bộ y tế, Bệnh viện, Viện Y học ứng dụng Việt Nam (https://vienyhocungdung.vn/) để hồi sức khỏe phục tốt và nhanh nhất.
Tài liệu tham khảo:
Tham khảo thêm thông tin tại: Các triệu chứng không thường gặp khi mắc COVID-19
Lỵ trực khuẩn là tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cấp tính và cần được điều trị kịp thời để phòng tránh những biến chứng nguy hiểm.
Khi mùa thi đến gần, học sinh bước vào giai đoạn căng thẳng và áp lực cao, đòi hỏi sự tập trung tối đa cũng như khả năng ghi nhớ và tư duy sắc bén. Bên cạnh việc học tập chăm chỉ, chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức khỏe não bộ, giúp kiểm soát lo âu và tối ưu hóa hiệu suất học tập.
Trong bối cảnh các nhà khoa học không ngừng tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa ung thư, chế độ ăn uống, đặc biệt là việc tiêu thụ trái cây và rau quả, được xem là một yếu tố quan trọng. Cà chua, với thành phần lycopene nổi bật, đang thu hút sự chú ý đặc biệt.
Việc thiết lập lịch trình ngủ và thói quen trước khi đi ngủ, đặt đồng hồ báo thức và điều chỉnh chế độ ăn uống là một số phương pháp có thể giúp bạn ngủ ngon hơn và thức dậy dễ dàng vào buổi sáng.
Tuy không có chế độ ăn kiêng đặc biệt nào có thể chữa khỏi hội chứng thiên thần nhưng dinh dưỡng hợp lý có thể giúp kiểm soát cân nặng, cải thiện giấc ngủ, quản lý táo bón và hỗ trợ phát triển nhận thức.
Dậy thì là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời mỗi người, đánh dấu sự chuyển đổi từ trẻ em sang người trưởng thành. Đây là giai đoạn cơ thể có nhiều thay đổi về mặt thể chất và tâm sinh lý, đặt nền móng cho sức khỏe sinh sản và sức khỏe tổng quát trong tương lai. Việc thấu hiểu những biến đổi này, cùng với sự quan tâm, hỗ trợ từ gia đình và xã hội, sẽ giúp thanh thiếu niên vượt qua giai đoạn dậy thì một cách an toàn và khỏe mạnh.
Bệnh lao hạch gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và khả năng ăn uống. Việc phát hiện sớm, điều trị đúng phác đồ và có chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp người bệnh nhanh phục hồi sức khỏe.
Bạn có thể dùng salad như một bữa ăn lành mạnh hoặc món ăn kèm, nhưng salad có thể gây ra một số vấn đề về tiêu hóa tùy thuộc vào thành phần của nó. Rau và trái cây sống là những thực phẩm có thể gây đầy hơi và chướng bụng do một số hợp chất và vi khuẩn, và chúng có thể là lý do tại sao bạn có thể bị đau bụng dữ dội sau khi ăn salad.