Từ đó dẫn đến sự giảm hay mất máu nuôi dưỡng tới vị trí trung tâm cốt hóa ở đầu xương của một số xương, gây tổn thương trung tâm cốt hóa, hoại tử tại chỗ, mọc xương tân tạo, hậu quả là xương phát triển không bình thường.
Biểu hiện bệnh thường khó nhận biết
Nhìn chung bệnh có tiến triển âm ỉ, đau ít tại vị trí xương bị tổn thương. Một số bệnh như bệnh Kienbock có thể có biểu hiện sưng đau ở vùng cổ tay, chỗ vị trí xương nguyệt, hoặc bệnh Legg-Perthes-Calve đau nhiều, hạn chế vận động tại vùng khớp háng, đi lại khó khăn hoặc bệnh Scheuermann có biểu hiện đau nhiều kèm biến dạng gù cột sống. Bệnh viêm xương sụn bóc tách là do một số mảnh xương hay sụn tự tách rời ra khỏi xương, rơi vào trong khớp gây ra các triệu chứng như “tiếng kêu chuột khớp” do chúng di chuyển ở trong khớp, dấu hiệu kẹt khớp, đau hạn chế vận động khớp.
Điều trị bao gồm thuốc điều trị triệu chứng, phục hồi chức năng, sử dụng nẹp cố định, nghỉ ngơi tránh làm việc nặng và phẫu thuật chỉnh sửa khi cần thiết.
Nhìn chung kết quả điều trị rất thay đổi, phụ thuộc vào vị trí tổn thương, phát hiện bệnh sớm hay muộn. Đa số các các trường hợp mắc bệnh Sever hay bệnh Freiberg tự khỏi, không đau, xương không biến dạng. Ngược lại bệnh Legg-Perthes-Calve hay gây đau nhiều, để lại di chứng nặng nề, thường cần phải thay chỏm xương đùi.
Thoái hóa xương sụn cột sống
là một bệnh gây biến dạng cột sống ngực hoặc cột sống thắt lưng, hay gặp ở trẻ em. Lâm sàng bao gồm triệu chứng đau âm ỉ tại khu vực tổn thương, cảm giác tức nặng, thường cách quãng không liên tục và liên quan đến hoạt động thể lực, giảm khi nghỉ ngơi. Khám bệnh nhân thấy gù cột sống, có thể có vẹo gây giảm, hạn chế vận động rõ. Co cơ cạnh cột sống, đặc biệt ở ngay trên và dưới vị trí gù. Các triệu chứng thần kinh do chèn ép hiếm khi gặp.
Điều trị bao gồm bảo tồn nội khoa và chỉnh hình ngoại khoa. Điều trị nội khoa phục hồi chức năng, dùng thuốc giảm đau, nghỉ ngơi, tránh công việc mang vác nặng. Khi gù nặng hơn, cần mặc áo nẹp cột sống giữ cho lưng thẳng kèm các biện pháp phục hồi chức năng cột sống kết hợp thư giãn nghỉ ngơi, nằm trên giường cứng.
Điều trị phẫu thuật ít khi chỉ định trong bệnh Scheuermann, chủ yếu khi đau nhiều không đáp ứng với điều trị bảo tồn nội khoa và gù gây mất thẩm mỹ. Nhìn chung, điều trị cần căn cứ vào tuổi tác, mức độ biến dạng cột sống, mức độ đau và đánh giá hiệu quả chức năng đạt được sau mỗi giai đoạn.
còn gọi là bệnh Legg-Perthes-Calve: do tổn thương ở đĩa sụn phát triển ở đầu xương, gần chỏm xương đùi. Bệnh hay gặp ở tuổi từ 3-12, hay gặp ở nam giới hơn (gấp 4-5 lần nữ). Tổn thương thường ở một bên, có thể gặp ở hai bên (15-20% trường hợp).
Triệu chứng đau tự nhiên ở khớp háng, gối hoặc vùng đùi, đi lại khập khiễng. Khám thấy hạn chế vận động khớp háng, đặc biệt động tác xoay trong hay dạng, có thể teo cơ nếu ở giai đoạn muộn. Chân tổn thương thường ngắn hơn chân lành. Xét nghiệm máu thường không phát hiện gì đặc biệt. Chụp Xquang khớp háng, đặc biệt ở tư thế dạng chân (chân ếch) có giá trị chẩn đoán: chỏm xương đùi bên tổn thương nhỏ hơn bên lành, có thể dẹt hẳn chỏm; có xơ hóa và hình ảnh giảm thấu quang ở vùng tổn thương dưới sụn; có thể có các nang xương nhỏ ở vùng cổ xương đùi.
Thường chia 5 giai đoạn tổn thương trên Xquang và tiến triển bệnh: giai đoạn ngừng phát triển của đầu xương, biểu hiện bên tổn thương chỏm xương đùi nhỏ hơn, khe khớp rộng hơn; giai đoạn gẫy xương dưới sụn: hình vạch tăng thấu quang ở vùng cổ nối với chỏm; tiêu xương; thoái hóa thứ phát với mọc xương tân tạo; giai đoạn ổn định. Việc điều trị bao gồm nghỉ ngơi hợp lý, tránh vận động mạnh, tập phục hồi chức năng, nẹp khớp háng khi cần để tránh trật khớp khỏi ổ cối.
Thuốc điều trị triệu chứng giảm đau, giãn cơ. Phẫu thuật chỉnh sửa những biến dạng nhiều ở chỏm xương, khi cần có thể xét thay khớp háng (thường khi trẻ đến tuổi trưởng thành). Nhìn chung tuổi khởi phát bệnh càng nhỏ tiên lượng càng tốt, khởi phát sau tuổi lên 10 thì trẻ dễ bị thoái hóa khớp háng thứ phát.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.