Virus corona (COVID-19) đã lan truyền nhanh chóng và trở thành đại dịch trên toàn cầu. Coronavirus (COVID-19) có thể lây lan giữa người với người - ước tính mỗi người bệnh có thể lây lan sang hai người khác, tuy nhiên khá ít trẻ em được chẩn đoán nhiễm coronavirus, tại sao vậy ?
Virus có thể ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh như thế nào
Nghiên cứu mới đây ở Vũ Hán Trung Quốc, được công bố trên The Lancet Wednesday, cho thấy có thể virus corona không lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình mang thai. Mặc dù đây mới chỉ là một nghiên cứu trên phạm vi hẹp và chỉ đánh giá 9 phụ nữ mang thai, nhưng điều này đã cung cấp cái nhìn đầu tiên về cách căn bệnh hô hấp này ảnh hưởng đến thai kì.
Bài báo xuất hiện sau khi một đứa trẻ sơ sinh có mẹ được xét nghiệm COVID-19 dương tính chỉ 36 giờ sau khi sinh. Tin tức đã khiến các nhà khoa học đặt ra câu hỏi liệu COVID-19 có thể được truyền cho thai nhi trong bụng mẹ hay không ?
Tác giả của nghiên cứu Wei Zhang cho biết có thể nước ối, máu cuống rốn hoặc sữa mẹ không phải là đường lây truyền của virus. Nghiên cứu cũng chưa làm rõ được sự ảnh hưởng của virus đối với phụ nữ có thai trong ba tháng đầu vì các thai phụ đều được nghiên cứu ở trong giai đoạn 3 tháng cuối của thai kì.
Các nhà nghiên cứu cho biết thêm bà mẹ bị nhiễm coronavirus có thể sẽ cần phải cách ly với trẻ sơ sinh sau khi sinh để tránh lây nhiễm qua tiếp xúc gần.
Nghiên cứu đã đánh giá 9 phụ nữ mang thai trong độ tuổi từ 26 đến 40 được chẩn đoán mắc bệnh viêm phổi do COVID-19.
Tất cả phụ nữ ở trong giai đoạn ba tháng cuối khi bắt đầu nghiên cứu và sinh con thành công nhờ sinh mổ. Các mẫu nước ối, máu cuống rốn, sữa mẹ và dịch niêm mạc ở trẻ sơ sinh đã được xét nghiệm và đều cho kết quả âm tính với coronavirus.
Phát hiện đáng chú ý nhất là virus không được truyền từ mẹ sang thai nhi trong bụng mẹ. Các biểu hiện lâm sàng cũng như sự tiến triển của bệnh ở những phụ nữ mang thai dường như không có bất kỳ sự khác biệt nào so với người bình thường.
Tất cả đối tượng nghiên cứu đều đang ở giai đoạn ba tháng cuối của thai kì vì vậy chưa thể đánh giá được những phụ nữ mang thai ba tháng đầu và ba tháng giữa sẽ phản ứng với virus như thế nào. Tất cả phụ nữ đã sinh con bằng sinh mổ nên chưa thể đánh giá liệu virus có thể truyền sang em bé trong khi sinh thường qua đường âm đạo hay không ?
Theo Tiến sĩ Jennifer Wu nếu virus lây lan qua các giọt trong không khí, thì nguy cơ lây truyền sinh mổ và sinh thường đường âm đạo là tương đương nhau. Nếu virus lây lan qua máu hoặc dịch cơ thể như HIV, thì khả năng lây nhiễm virus sẽ giảm khi sinh mổ.
Mặc dù có những bằng chứng đầy hứa hẹn nhưng các nhà nghiên cứu cho biết phạm vi của nghiên cứu này rất nhỏ và cần nhiều nghiên cứu đánh giá hơn trước khi có thể kết luận liệu có sự lây nhiễm từ mẹ sang con trong quá trình mang thay hay không.
SARS cũng không lây sang thai nhi
Những phát hiện này cũng khi dịch SARS bùng phát (SARS-CoV-1) vào năm 2003.
Theo các nhà nghiên cứu, không có nhiều bằng chứng cho thấy phụ nữ mang thai có thể lây truyền SARS sang thai nhi. Các loại virus này không có xu hướng truyền sang thai nhi do hàng rào nhau thai và nước ối bảo vệ. Kể cả ở những bà mẹ bị nhiễm trùng huyết thai nhi thường không bị ảnh hưởng.
Có một số khác biệt chính giữa SARS và COVID-19.
Phụ nữ mang thai bị nhiễm SARS có nhiều biến chứng ở bà mẹ và trẻ sơ sinh (sẩy thai, sinh non và hạn chế tăng trưởng trong tử cung). Tuy nhiên nghiên cứu này lại cho thấy rằng phụ nữ mang thai bị nhiễm COVID-19 không có biến chứng hoặc ảnh hưởng tiêu cực từ COVID-19, và thường có biểu hiện bệnh nhẹ hơn. Nhưng vẫn còn quá sớm để biết chắc chắn COVID-19 có thể ảnh hưởng đến việc mang thai như thế nào.
Phụ nữ mang thai bị ức chế miễn dịch do những thay đổi trong thai kỳ, điều này theo mặc định khiến họ có nguy cơ nhiễm virus cao hơn. Bằng chứng trong quá khứ cho thấy, phụ nữ mang thai có nhiều khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp và cúm hay SARS, và có nguy cơ bị biến chứng nguy hiểm hơn.
Viêm phổi cũng là một mối lo ngại rất lớn đối với phụ nữ mang thai, khoảng 1/4 phụ nữ mang thai bị viêm phổi sẽ phải nhập viện. Điều quan trọng là tiếp tục quan tâm đến phụ nữ mang thai bị nhiễm COVID-19 để tránh lây sang cho thai nhi và giảm nguy cơ biến chứng của bệnh.
Nhiễm trùng xuất hiện ít nghiêm trọng ở trẻ em
Rất ít trẻ em bị nhiễm coronavirus và những trẻ bị nhiễm thường có triệu chứng nhẹ hơn so với người lớn. Một báo cáo được công bố trên JAMA cho thấy hầu hết những người bị nhiễm coronavirus là từ 49 đến 56 tuổi.
Hầu hết các bệnh nhân có một căn bệnh tiềm ẩn, vì vậy mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể phụ thuộc vào sức khỏe tổng thể của người đó. Những người bị nhiễm coronavirus thường đang mắc các bệnh mãn tính như tiểu đường, huyết áp cao và bệnh tim mạch.
Trẻ em dưới 12 tuổi mắc SARS có các triệu chứng nhẹ hơn và nhập viện ít hơn so với người lớn. Trẻ em mắc hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) cũng có tỷ lệ tử vong thấp hơn người lớn và thường có các triệu chứng nhẹ hơn.
Đây vẫn đang là giai đoạn đầu nghiên cứu loại coronavirus mới, cho đến khi có thêm bằng chứng mới thì không có một kết luận chắc chắn nào được đưa ra về cách coronavirus lây nhiễm và ảnh hưởng ở phụ nữ mang thai và trẻ em.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Trẻ em dường như ít bị tổn thương hơn so với người lớn trước COVID-19
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.