Những người bị NES hoặc đang sống với người có vấn đề này có thể nhận thấy những dấu hiệu nhất định trong nhà.
Bạn có thể tìm thấy mớ hỗn độn trong bếp hoặc thiếu thức ăn, cho thấy ai đó đã ăn thức ăn vào giữa đêm. Đây là những dấu hiệu cho thấy ai đó trong nhà có thể mắc hội chứng ăn đêm.
Những người bị NES thường ăn vì họ tin rằng nó sẽ cải thiện giấc ngủ hoặc giúp họ ngủ lại. Những người bị NES thường cho biết buổi sáng không thèm ăn hoặc ăn lượng thức ăn không đáng kể. Họ thường trải qua cảm giác tội lỗi và xấu hổ liên quan đến việc ăn uống của họ.
Chẩn đoán
Hội chứng ăn đêm hiện được phân loại là một Rối loạn ăn uống. Các tiêu chuẩn chẩn đoán chính của NES là các đợt ăn lặp đi lặp lại vào ban đêm, bao gồm: thức dậy để ăn, tiêu thụ quá nhiều thức ăn sau bữa ăn tối, và cảm giác hối lỗi khi nhớ lại việc ăn đêm.
Tiêu chuẩn chẩn đoán bổ sung cho NES bao gồm: ít nhất 25% lượng thức ăn được tiêu thụ sau bữa ăn tối của ba tháng trở lên; và việc ăn vào ban đêm xảy ra ít nhất hai lần mỗi tuần trong ba tháng trở lên.
Những người bị NES có thể ăn quá độ (nghĩa là ăn một lượng lớn thực phẩm trong một khoảng thời gian ngắn trong khi cảm thấy mất kiểm soát).
Những người bị NES dường như bị gián đoạn nhịp sinh học của họ, quá trình sinh học điều chỉnh giấc ngủ và nhu cầu ăn theo chu kỳ tự nhiên của ánh sáng và bóng tối. Ở người, sự thèm ăn và tiêu thụ thực phẩm có xu hướng tương ứng chặt chẽ với giờ thức giấc. Các cá nhân bị NES duy trì chu kỳ ngủ bình thường nhưng kiểu ăn uống bị trì hoãn. Một nghiên cứu cho thấy những người bị NES tiêu thụ 56% lượng calo của họ trong khoảng từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng trong khi những người bình thường chỉ tiêu thụ 15% lượng calo của họ trong khung thời gian này.
NES được mô tả lần đầu tiên vào năm 1955 bởi bác sĩ tâm thần Albert Stunkard, người đã xem NES như một biến thể hành vi của béo phì. Kết quả là, NES thường được nghiên cứu trong bối cảnh nghiên cứu về béo phì. So với các rối loạn ăn uống khác, NES đã được nghiên cứu một cách thận trọng. Uớc tính khoảng 1,5% dân số có NES; và gặp nhiều hơn ở những nhóm người nhất định: từ 6-14% số người béo phì đã giảm cân và 9-42% số người đã thực hiện phẫu thuật giảm cân.
Đánh giá NES có thể được thực hiện thông qua Bảng câu hỏi ăn đêm (NEQ) hoặc Thang chẩn đoán ăn đêm (NEDS), trong đó người bệnh tự điền câu trả lời. Các bác sỹ thường sử dụng NESHI để phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân và chẩn đoán xác định.
Rối loạn liên quan
Một người có thể mắc NES và một rối loạn ăn uống khác đồng thời. Các nghiên cứu cho thấy khoảng 7-25% những người bị NES cũng mắc chứng rối loạn ăn uống quá độ. Trong số những người mắc chứng ăn-ói, 40% bệnh nhân nội trú và 50% bệnh nhân ngoại trú có các triệu chứng ăn đêm. Như vậy, NES có thể được coi là một biến thể cụ thể của chứng rối loạn ăn uống quá độ hay chứng ăn-ói, thể hiện một mô hình sinh học bị gián đoạn của việc ăn uống và ăn uống đáng kể trong giờ ngủ.
Một rối loạn tương tự, nhưng khác biệt là rối loạn ăn uống liên quan đến giấc ngủ (SRED). SRED chủ yếu là rối loạn giấc ngủ, trong khi NES chủ yếu là rối loạn ăn uống. Sự khác biệt chính là những người bị SRED ăn trong khi ngủ hoặc trong trạng thái chạng vạng giữa giấc ngủ và sự tỉnh táo, và không nhận thức được những gì họ đang làm. Họ thường thức dậy để tìm thức ăn trên giường và không có ký ức về việc ăn.
Ngược lại, những người bị NES hoàn toàn tỉnh táo trong khi họ đang ăn và nhớ lại sau đó. Trong một số nghiên cứu, một tỷ lệ cao những người bị SRED đã sử dụng thuốc tâm thần theo toa, điều này có thể chỉ ra rằng những loại thuốc này có liên quan đến chứng rối loạn. Bệnh nhân mắc NES thường bị trầm cảm và lo lắng. Họ cũng có thể có tiền sử lạm dụng chất gây nghiện.
Nguyên nhân
Nguyên nhân chính xác của NES vẫn chưa được biết. Một số ý kiến cho rằng NES liên quan đến sự mất cân bằng hormone làm gián đoạn mô hình ăn uống. Một số nghiên cứu ghi nhận thói quen thức khuya và ăn khuya - rất phổ biến ở các sinh viên đại học - nếu kéo dài liên tục trong một thời gian quá dài có thể sẽ làm xuất hiện NES và khó có thể xóa bỏ ngay được.
NES cũng có thể là một phản ứng với chế độ ăn kiêng. Khi một người giảm lượng thức ăn trong ngày và cơ thể rơi vào tình trạng thiếu năng lượng bổ sung, dẫn đến kích thích ăn muộn là một phản ứng bình thường. Theo thời gian, việc ăn vào ban đêm có thể trở khó xóa bỏ.
(...) còn tiếp
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Những sai lầm thường gặp khi giảm cân
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.
Mùa thu là thời điểm cơ thể dễ phải đối mặt với nhiều thách thức do sự thay đổi của thời tiết và môi trường. Vậy, mùa thu nên bổ sung những loại vitamin nào?
Da đầu ngứa có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm thói quen gội đầu, chấy, bệnh vẩy nến, v.v.
Nga vừa công bố phát triển thành công vắc-xin mRNA điều trị ung thư, mang lại hy vọng lớn cho những bệnh nhân đang trong cuộc chiến chống lại căn bệnh hiểm nghèo này. Vắc-xin đang chờ Bộ Y tế Nga phê duyệt để được sử dụng rộng rãi vào đầu năm sau. Đây được coi là bước ngoặt lớn trong lĩnh vực y học hiện đại.