Đứa trẻ đầu tiên được thụ thai nhờ sử dụng “con giống” đông lạnh đã chào đời vào năm 1953. Hàng chục năm sau, thế giới cũng đón nhận đứa trẻ đầu tiên ra đời từ một phôi thai đông lạnh vào năm 1984 và sau đó hai năm là ca sinh nở thành công đầu tiên từ một noãn bào (trứng) đông lạnh.
Từng được coi là kỹ thuật vô cùng mới mẻ, nhưng việc đông lạnh trứng, tinh trùng và phôi hiện đã trở thành một lựa chọn tiêu chuẩn trong việc chữa trị các vấn đề sinh sản. Nhờ có chúng, phụ nữ trải qua quá trình hóa trị liệu có thể bảo tồn những quả trứng khỏe mạnh; các cặp vợ chồng chọn thụ tinh trong ống nghiệm có thể dự trữ các phôi cho tương lai và mọi người có thể hiến tặng trứng, tinh trùng và phôi để giúp những người vô sinh thụ thai.
Tối ưu hóa quá trình thụ tinh trong ống nghiệm
Đúng như tên gọi, IVF là quá trình cho tinh trùng thụ tinh với trứng trong ống nghiệm, sau đó phôi tạo ra sẽ được chuyển vào tử cung của người mẹ. Đứa trẻ đầu tiên ra đời bằng phương pháp này là Louise Joy Brown vào năm 1978 và kể từ đó, hàng triệu ông bố, bà mẹ đã được thỏa mãn ước nguyện có con nhờ IVF. Các kỹ thuật, chẳng hạn như soi nhiễm sắc thể phôi và giám sát sự phân bào đã cải thiện tỉ lệ thành công của IVF.
Kỹ thuật soi nhiễm sắc thể cho IVF
Các chuyên gia IVF hiện đang thực hiện việc soi nhiễm sắc thể ở các phôi 5 ngày tuổi và đưa ra kết quả phân tích di truyền bao quát hơn so với các dạng xét nghiệm kiểm tra trước đây. Kỹ thuật này có thể gia tăng tỉ lệ thụ thai thành công cũng như cắt giảm một nửa số trường hợp sảy thai, thông qua nhận diện các phôi khỏe mạnh hơn để cấy ghép vào tử cung.
Kỹ thuật giám sát phân bào cho IVFCác chuyên gia hiện sử dụng việc ghi hình tua nhanh thời gian để giám sát các phôi IVF trong 5-6 ngày trong phòng thí nghiệm, để xác định thời điểm chúng phát triển thành các túi phôi (blastocyst). Kỹ thuật này cho phép họ lựa chọn các phôi dường như phát triển bình thường nhất cho việc cấy ghép vào tử cung.
Cấy ghép một phôi thai
Trước đây, để tăng tỉ lệ thụ thai, các bác sĩ thường cấy ghép 2 hoặc nhiều phôi vào tử cung sau 1 hoặc 2 ngày, với hy vọng một phôi trong số đó sẽ “đậu lại” thành công. Hiện nay, thay vào đó, nhiều bệnh nhân lại đang được cấy vào tử cung chỉ 1 phôi có thời gian nuôi phát triển bên ngoài dài hơn.
Theo giải thích của các chuyên gia, thời gian phát triển thêm như vậy sẽ dẫn tới tỉ lệ cấy phôi thành công cao hơn và giảm nguy cơ thai bị sinh non.
Mang thai hộ
Trường hợp mang thai hộ chính danh đầu tiên trên thế giới được báo cáo ở Mỹ vào năm 1985. Mang thai hộ được thực hiện trên cơ bản là kỹ thuật IVF thông thường, nên không phức tạp về mặt kỹ thuật. Người vợ trong cặp vợ chồng có nhu cầu nhờ mang thai hộ sẽ được kích thích buồng trứng, theo dõi và chọc hút noãn. Noãn sẽ được thụ tinh với tinh trùng người chồng để tạo phôi.
Phôi có thể được chuyển ngay vào tử cung người phụ nữ mang thai hộ hoặc phôi sẽ được đông lạnh, rồi được rã đông và cấy vào tử cung người nhận mang thai hộ vào thời điểm thích hợp. Người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đảm bảo có đủ tinh trùng để IVF và người vợ phải có dự trữ buồng trứng đủ để cho việc thực hiện IVF. Vấn đề chính đối với phương pháp này thường là các tranh cãi xung quanh vấn đề pháp lý và đạo đức.
Bơm thẳng tinh trùng vào trứng (ICSI)
Được phát triển vào đầu những năm 1990, kỹ thuật ICSI bao gồm việc bơm trực tiếp một tinh trùng vào một noãn bào (trứng) để tạo ra quá trình thụ tinh. Kỹ thuật này từng được dùng phổ biến nhất để giải quyết các vấn đề vô sinh ở nam giới, với tỉ lệ thụ tinh thành công khoảng 50 – 80%. Song, một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí JAMA thống kê rằng, trong các ca IVF mới ở Mỹ, ICSI ngày càng được sử dụng như kỹ thuật bổ trợ cho IVF, với tỉ lệ dùng tăng từ 36,4% năm 1996 tới 76,2% vào năm 2012, bất kể nam giới trong các trường hợp này có bị vô sinh hay không.
Đông lạnh mô buồng trứng
Theo các chuyên gia, giới hạn khả năng sinh sản tự nhiên của một người phụ nữ chủ yếu nằm ở buồng trứng, chứ không phải tử cung của cô ấy. Vì vậy, về mặt lý thuyết, chúng ta vẫn có thể đông lạnh mô buồng trứng của phụ nữ ở độ tuổi đạt đỉnh về khả năng sinh sản (có thể quanh ngưỡng 29-30 tuổi) và “đánh thức” chúng khi chủ nhân sẵn sàng hoặc muốn sinh con.
Kỹ thuật đông lạnh mô buồng trứng vì lẽ đó đã được phát triển và ra đời tương đối gần đây. Kỹ thuật này bao gồm việc phẫu thuật trích lấy một phần hoặc toàn bộ mô buồng trứng của người phụ nữ, đông lạnh để lưu trữ rồi tái cấy ghép trở lại vào thời điểm thích hợp.
Theo thống kê, cho tới hiện tại, đã có khoảng 30 ca mang thai thành công từ mô buồng trứng đông lạnh, nhưng kỹ thuật này vẫn còn được coi là mang tính thử nghiệm. Tất cả những người áp dụng kỹ thuật như trên đều là phụ nữ bị mắc bệnh ung thư và phải đông lạnh mô buồng trứng trước khi làm hóa trị hoặc xạ trị nhằm không gây tổn hại đến khả năng sinh sản của họ.
Cấy ghép tử cung
Năm ngoái, một phụ nữ được cấy ghép tử cung của người khác ở Thụy Điển, đã sinh ra một bé trai khỏe mạnh. Theo báo cáo, bệnh nhân nữ 36 tuổi chào đời không có tử cung, dù vẫn có các buồng trứng hoạt động bình thường. Cô đã được cấy ghép tử cung do một người bạn gia đình, 61 tuổi hiến tặng. Người này trải qua giai đoạn mãn kinh 7 năm trước đó.
Đây được coi là trường hợp thành công đầu tiên kiểu này trên thế giới. Các ca cấy ghép tử cung trước đây, vốn được thử nghiệm với những phụ nữ sinh ra không có tử cung hoặc tử cung “lỗi”, hoặc thất bại trong việc giúp bệnh nhân thụ thai hoặc dẫn đến sảy thai.
Trường hợp của người phụ nữ Thụy Điển nói trên đang làm dấy lên hy vọng mới cho hàng triệu phụ nữ vô sinh trên thế giới. Điều này là vì dị tật bẩm sinh và việc chữa trị ung thư thường là những nguyên nhân chính khiến một phụ nữ không có hoặc không còn tử cung hoạt động bình thường. Nếu những phụ nữ này muốn có con của chính mình, lựa chọn duy nhất hiện nay của họ là nhờ người mang thai hộ, vốn gặp rất nhiều rắc rối về mặt pháp lý và đạo đức.
Tuy nhiên, trong dư luận vẫn còn những hoài nghi về sự an toàn và hiệu quả của phương pháp mang tính can thiệp sâu này. Các chuyên gia nghiên cứu vẫn đang tiếp tục thử nghiệm cấy ghép tử cung cho 8 cặp vợ chồng vô sinh khác để xác định xem liệu kỹ thuật này có thể ứng dụng rộng rãi hay không.
Rau càng cua - một loại rau mọc dại nhưng lại chứa nhiều chất dinh dưỡng quý. Ngoài tác dụng đối với các vấn đề về sức khỏe, rau càng cua còn mang lại lợi ích lớn trong làm đẹp.
Việc chuyển mùa luôn đi kèm với những thay đổi về thời tiết, từ đó kéo theo nguy cơ gia tăng các bệnh về đường hô hấp. Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, liệt kê những bệnh hô hấp phổ biến và đưa ra những hướng dẫn chi tiết để phòng tránh hiệu quả, giúp bạn và gia đình vượt qua giai đoạn giao mùa một cách khỏe mạnh.
Thèm ăn đêm nhưng lại sợ tăng cân là nỗi lo của không ít người. Dưới đây là 5 món ăn đêm vừa ngon miệng, vừa nhẹ bụng mà vẫn giữ dáng hiệu quả, bạn có thể tham khảo...
Sự xuất hiện của mùa đông thường mang lại cảm giác nhẹ nhõm, xua tan ánh nắng chói chang của mùa hè. Trong bối cảnh này, mặt trời mùa đông, mặc dù có vẻ yếu hơn và xuất hiện ít hơn, nhưng lại có khả năng gây tổn hại da dai dẳng và không kém mùa hè.trong việc gây ung thư da. Sự kết hợp giữa bức xạ tia cực tím A (UVA) của mặt trời, các yếu tố môi trường, và một loạt các quan niệm sai lầm phổ biến tạo ra một cơn bão hoàn hảo gây tổn thương da vô hình, tích tụ theo thời gian. Hiểu biết toàn diện về những mối nguy hiểm quanh năm này là rất quan trọng để phòng ngừa thư.
Dầu dừa không phải là thuốc mọc tóc nhưng nếu sử dụng đúng cách và đều đặn sẽ giúp bạn có mái tóc khỏe mạnh, giảm gãy rụng và phát triển tốt hơn theo thời gian.
Nếu bạn cảm thấy buồn nôn sau khi tập luyện, bạn không phải là người duy nhất. Nguyên nhân thường xuất phát từ cách cơ thể bạn phản ứng với một vài yếu tố chính khi tập luyện như: mất nước, ăn gì và uống gì, vận động mạnh, lượng đường trong máu thấp, tiếp xúc với nhiệt độ cao và gắng sức quá mức .
Hệ tiêu hóa khỏe mạnh là nền tảng của một cơ thể khỏe mạnh. Việc lựa chọn đúng loại thực phẩm không chỉ giúp hệ tiêu hóa làm việc trơn tru mà còn hỗ trợ sức khỏe tổng thể.
Viêm khớp mãn tính là một bệnh lý phổ biến, gây ra đau đớn, hạn chế vận động và ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống. Bệnh không chỉ tác động đến khớp mà còn có thể làm tổn thương các cơ quan khác như tim, phổi và mắt.