Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh thấp khớp mạn, tự miễn, là bệnh thường gặp nhất trong các bệnh khớp. Ở Việt Nam tỉ lệ mắc bệnh là 0,5% trong nhân dân và 20% số bệnh khớp nằm điều trị tại bệnh viện. Bệnh gặp ở mọi nơi trên thế giới, chiếm 0,5%-3% dân số ở người lớn. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi ngoài 30, nếu không phát hiện và điều trị sớm có thể để lại một số biến chứng.
Biểu hiện thế nào?
Nguyên nhân gây nên bệnh viêm khớp dạng thấp chưa được khẳng định một cách chắc chắn nhưng nhiều giả thuyết cho rằng có thể là bệnh tự miễn và di truyền (mẹ truyền cho con gái).
Tính chất sưng, đau khớp có xu hướng lan ra 2 bên. Thông thường có ít nhất 3 khớp trong số các khớp này bị sưng và đau. Đặc trưng nhất là các khớp sưng, đau đối xứng nhau. Đau khớp nhiều vào ban đêm, nhất là lúc thời tiết chuyển mùa mưa nhiều, thời tiết lạnh, rét. Bên cạnh đó triệu chứng cứng khớp thường xuất hiện vào sáng sớm lúc vừa ngủ dậy. Ngoài đau khớp, có thể có sốt nhẹ, da xanh, ăn ngủ kém, gầy, rối loạn thần kinh thực vật.
Để chẩn đoán chính xác viêm khớp dạng thấp nên xét nghiệm tốc độ máu lắng và tỷ lệ CRP (tăng cao), đặc biệt là có (dương tính) yếu tố dạng thấp RF (Rheumatoid Factor) và chụp Xquang khớp đau (thấy có hình ảnh biến đổi xương như mất vôi, hình dải hoặc xói mòn hoặc khuyết xương hoặc hẹp khe khớp hoặc dinh khớp).
Viêm khớp dạng thấp có thể gây biến dạng khớp, co quắp các ngón tay, hạn chế chức năng vận động (khớp cổ chân, cổ tay, bàn tay...), gây teo cơ (bắp chân, bàn tay...) và tệ hại nhất là có thể bị tàn phế (khoảng từ 10 - 15%).
Nguyên tắc điều trị
Khi nghi ngờ bị bệnh viêm khớp dạng thấp cần đi khám bệnh và điều trị tích cực theo chỉ định của bác sĩ. Nguyên tắc điều trị là dùng thuốc giảm đau, chống viêm và nên có sự kết hợp điều trị lý liệu pháp, phục hồi chức năng (nếu đã có biến chứng). Người bệnh không được tiêm bất cứ loại thuốc nào vào vùng đau của khớp hoặc khớp khi chưa có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa khớp. Viêm khớp dạng thấp là bệnh mạn tính kéo dài có khi hàng chục năm, đòi hỏi điều trị phải kiên trì, liên tục. Hàng tháng nên đi khám bệnh theo định kỳ để bác sĩ theo dõi tình trạng sức khoẻ của mình thuận lợi hơn.
Phòng bệnh thế nào?
Cần ăn, uống đủ chất, có chế độ sinh hoạt hợp lý và vận động khớp đều dặn nhằm tránh biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ. Vì vậy, mỗi buổi sáng lúc mới ngủ dậy nên xoa bóp cơ khớp, tốt nhất là xoa thêm một số dầu làm nóng da, giãn mạch để máu lưu thông tốt đến các cơ, xương, khớp, dây chằng. Thời gian xoa bóp tốt nhất từ 10 - 15 phút.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!