Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Các nhân tố giúp con người đề kháng với HIV

Phát triển một liều chủng ngừa HIV là một thách thức cam go trong nhiều thập kỷ qua. Nhưng giờ đây, các nhà khoa học đang xác định được những nhân tố chủ chốt nhằm cho phép một số người có thể “ức chế” HIV.

Nghiên cứu các cách thức mà HIV tấn công cơ thể người, làm suy yếu hệ miễn dịch, có thể dẫn đến những liệu pháp đặc trị mới hoặc tìm ra các loại chủng ngừa HIV. Điều này nếu thành công có thể giúp phòng ngừa và điều trị lây nhiễm bệnh.

Nghiên cứu từ 2 nhóm bệnh nhân tự kiểm soát lây nhiễm HIV

Các nhà nghiên cứu tin rằng, họ có thể xác định được những điểm quan trọng trên bề mặt của HIV - nơi mà hệ miễn dịch có thể tấn công ngược lại virut này. Cuộc nghiên cứu được tiến hành bởi Viện nghiên cứu Ragon - một liên kết hợp tác của nhiều chi nhánh khác nhau của Đại học Harvard và Viện công nghệ Massachusetts (MIT) hiện đã được trình bày trên một công trình nghiên cứu mới đăng tải trên tờ Khoa học (Science). Nghiên cứu này được xây dựng dựa trên 2 nhóm: Những người có khả năng kiểm soát được sự lây lan của HIV một cách tốt hơn và các bệnh nhân kiểm soát trung bình.

Nhóm bệnh nhân được gọi là “Nhóm kiểm soát virut” chiếm không đầy 5% so với những người bị nhiễm HIV nhưng có thể giữ virut trong máu của họ dưới 2.000 bản sao/millilit máu trong suốt nhiều năm, đôi khi là suốt nhiều thập kỷ mà không cần uống thuốc kháng virut. Nhóm bệnh nhân thứ hai được gọi là “Nhóm kiểm soát ưu tú” chiếm không đầy 0,5% những người mang HIV, họ thậm chí còn kiểm soát miễn dịch mạnh hơn và có thể ức chế virut dưới mức bị phát hiện (50 bản sao/millilit máu).

cac-nhan-to-giup-con-nguoi-de-khang-voi-hiv-1

Quét vi điện tử của HIV-1 (các chấm màu sáng) vừa nảy ra từ lympho nuôi cấy (một loại tế bào bạch cầu).

HIV lây lan rất nhanh và làm chết các tế bào hệ miễn dịch, khiến cho bệnh nhân có nguy cơ dễ bị tổn thương cao đối với những chứng lây nhiễm phổ biến nhất sau khoảng 10 năm nếu không được dùng thuốc kháng virut. Viện nghiên cứu Ragon đã xác định được khoảng 1.800 cá thể kiểm soát virut trong vòng 15 năm tìm kiếm trên khắp toàn cầu. Nghiên cứu trước đó đã xác định được các mô hình kháng nguyên bạch cầu ở người (HLA) - là những chỉ dấu dựa trên di truyền ngay trên bề mặt các tế bào điều khiển chức năng hệ miễn dịch - liên kết với cơ chế tăng cường sự bảo vệ chống lại HIV. Nhưng các chỉ dấu HLA chỉ giải thích khoảng 20% tổng hiệu ứng, trong khi đó, chỉ dấu HLA cụ thể có thể làm tăng cường tỷ lệ đánh cược cho người có thể kiểm soát HIV, nó không giúp được hết trong khoảng 1/3 số bệnh nhân.

Hy vọng tìm ra thuốc chủng ngừa tạo ra cơ chế miễn dịch

Nghiên cứu mới đã thẩm tra về cấu trúc của chính bản thân HIV, chỉ ra những phần cụ thể của nó nhắm mục tiêu vào hệ miễn dịch để cố gắng giải thích lý do tại sao mà một số người lại có khả năng chống lại sự lây lan của HIV. Nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu Ragon đã khai thác vào Ngân hàng dữ liệu chất đạm (PDB), một kho dữ liệu với các cấu trúc 3 chiều của những phân tử chất đạm gồm từ 12 trong số 15 chất đạm để định hình nên con virut HIV. Bằng cách dùng mô hình toán học, các nhà nghiên cứu đã xác định được nên những cái nút trong số lượng các chất đạm lớn nhất sẽ kết hợp lại để tạo nên hình dạng virut. Sự phức tạp của những điểm nối vật lý này có nghĩa là bất kỳ sự thay đổi nào đối với những cái dây nút cũng cho ra những tác động quan trọng nhất về chức năng của con virut.  HIV có thể đột biến ở một số điểm nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công hệ miễn dịch mà không ảnh hưởng nghiêm trọng tới chức năng của virut.

Kế đó, nhóm nghiên cứu đã quan sát nơi mà các tế bào CD8 T (một phần then chốt của hệ miễn dịch) nhắm vào HIV. Các nhà khoa học phát hiện ra các tế bào CD8 T của nhiều người chỉ bắn ngẫu nhiên vào HIV, thường đánh vào các phần của virut mà có thể dễ dàng đột biến để chặn cuộc tấn công. Nhưng các tế bào CD8 T của “Nhóm kiểm soát virut” và “Nhóm kiểm soát ưu tú” đều tập trung cuộc tấn công vào các nút kết nối nơi mà virut HIV ít có khả năng đột biến và như thế sẽ làm chậm cuộc tấn công của virut HIV lên hệ miễn dịch. Việc xếp hạng các nút bằng những liên kết với chất đạm của chúng và các tế bào cụ thể trên virut nhắm vào hệ miễn dịch có thể tạo ra một “điểm võng”. Nếu điểm võng cao hơn thì các tế bào CD8 T cũng thành công trong việc kiểm soát lây nhiễm HIV - cấu trúc HLA dường như không quan trọng. Trong phòng thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã tạo ra những phiên bản HIV mà có thể đột biến ở những nút quan trọng và cố gắng lây nhiễm các đường dẫn tế bào, cùng cách mà virut HIV sẽ lây lan thông qua bệnh nhân. Nhưng các đột biến làm suy yếu đáng kể khả năng của virut trong việc lây nhiễm và sao chép các tế bào.

Các nhà khoa học của công trình này tin rằng những phát hiện mới mẻ này có thể sẽ mang một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển ra các thuốc chủng ngừa tế bào T. Phát triển chủng ngừa gây nhiều tranh cãi trong số các nhà nghiên cứu HIV. Bởi vì phần lớn nghiên cứu chủng ngừa HIV hiện tại đang chú trọng vào các kháng thể - một phần quan trọng khác của hệ miễn dịch - hơn là tập trung vào các tế bào T nhằm tạo ra cơ chế bảo vệ miễn dịch chống lại lây nhiễm. Nếu thực sự cách tiếp cận này tạo ra một bản đồ tốt hơn về những mục tiêu tấn công HIV thì nó vẫn còn là bước đầu tiên nhưng khá quan trọng. Bước kế tiếp là tìm ra cách để sản xuất và phân phối các tế bào CD8 T cho những mục tiêu kể trên.

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Cách dự phòng sau khi phơi nhiễm HIV

Văn Chương - Theo Sức khỏe & Đời sống/smithsonianmag
Bình luận
Tin mới
  • 21/11/2024

    Trị bệnh Parkinson bằng Đông y có hiệu quả không?

    Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.

  • 21/11/2024

    Tăng cường sức khỏe xương khớp cho người cao tuổi trong mùa đông

    Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh

  • 21/11/2024

    Tức giận - Kẻ thù thầm lặng của sức khỏe

    Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.

  • 21/11/2024

    Bệnh hô hấp và cách bảo vệ sức khỏe trong mùa lạnh

    Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.

  • 20/11/2024

    9 cách chữa đau chân tại nhà hiệu quả

    Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.

  • 19/11/2024

    Các phương pháp điều trị bênh tiêu chảy tự nhiên khi bạn đang cho con bú

    Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.

  • 18/11/2024

    Tại sao người đái tháo đường nên ăn rau đầu tiên?

    Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

  • 18/11/2024

    Ngày Trẻ em Thế giới: Bồi dưỡng sức khỏe thể chất và tinh thần cho trẻ

    Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Xem thêm