Nhìn chung, nhiễm trùng do bất kỳ loại virus nào trong số đó đều rất phổ biến. May mắn thay, chỉ một số lượng rất nhỏ những người bị nhiễm những loại virus đó sẽ tiếp tục phát triển thành bệnh ung thư. Và sẽ mất nhiều năm để phát triển thành bệnh ung thư. Hơn nữa, chỉ riêng mình virus thì không đủ để gây ra ung thư và mà nó phải đi kèm với sự ức chế miễn dịch, đột biến tế bào sinh dưỡng, yếu tố di truyền và tiếp xúc với chất gây ung thư.
Dưới đây là 6 loại virus gây ung thư phổ biến (hay còn gọi là virus tạo khối u ở người):
Virus viêm gan C
Viêm gan C là loại một virus RNA, gây ra cả bệnh viêm gan cấp tính và mãn tính. Nhiễm trùng mãn tính với viêm gan C gây xơ gan hoặc tổn thương tế bào gan vĩnh viễn. Chỉ 1-2 % những người bị xơ gan cuối cùng có thể dẫn đến ung thư gan.
Viêm gan C cũng liên quan đến bệnh ung thư bạch huyết dạng không Hodgkin.
Mặc dù hiện nay chưa có vắc-xin phòng viêm gan C, nhưng đã có nhiều phương pháp phát hiện sớm và điều trị hiệu quả cho căn bệnh này dể giảm thiểu cao nhất nguy cơ xơ gan hoặc ung thư gan.
Virus viêm gan B
Trong khi viêm gan C là loại một virus RNA thì viêm gan B là một loại virus DNA. Mặc dù ở 2 họ virus khác nhau, viêm gan B gây nhiễm trùng với các triệu chứng lâm sàng tương tự như bệnh viêm gan C: viêm gan cấp và mãn tính, xơ gan và ung thư tế bào gan.
Ung thư tế bào gan là một bệnh ung thư nguy hiểm có thể gây tử vong trong vòng một hoặc hai năm sau khi bị mắc phải. Điều trị ung thư gan phải được điều trị quyết liệt bằng việc phẫu thuật cắt bỏ gan hoặc cấy ghép gan.
May mắn thay, chúng ta đã có vắc-xin phòng viêm gan B. Vắc-xin phòng viêm gan B được sử dụng trong chương trình Tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam và được tiêm rất sớm cho trẻ em mới sinh. Đối với người lớn, việc xét nghiệm HbsAg và tiêm vắc xin là cần thiết để hạn chế nguy cơ viêm gan cũng như ung thư gan sau này.
Virus ung thư cổ tử cung HPV
Human Papiloma Virus HPV là một loại virus DNA nhỏ gây ra mụn cóc ở đường sinh dục. Tái nhiễm HPV thuộc nhóm có nguy cơ cao có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung. Hơn nữa, nhiễm HPV kéo dài cũng đã được chứng minh có liên quan đến sự phát triển của các loại ung thư khác, bao gồm cả u ở đầu và cổ, ung thư da ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch (ví dụ như bệnh nhân AIDS), và ung thư đường sinh dục.
May mắn thay nhờ có xét nghiệm tế bào cổ tử cung, chúng ta đã có thể sàng lọc sớm với hiệu quả cao đối với bệnh ung thư cổ tử cung.
Virus gây ung thư tế bào lympho T (HTLV – 1)
HTLV-1 là một loại RNA retrovirus. Trên khắp thế giới có khoảng 5 đến 25 triệu người bị nhiễm virus này. Tuy nhiên, chỉ có một tỉ lệ nhỏ (5%) bệnh nhân có triệu chứng. HTLV-1 có ái tính (bị thu hút) bởi các tế bào CD4, một loại tế bào bạch cầu vô tính. 20 đến 30 năm sau khi bị nhiễm HTLV-1, bệnh ung thư tế bào bạch cầu T có thể phát triển.
Ban đầu phương pháp hóa trị có thể được sử dụng để điều trị bệnh ung thư bạch cầu tế bào T trưởng thành và giúp bệnh thuyên giảm trong thời gian ngắn, nhưng tiếp theo bệnh lại tái phát nhanh chóng. Trung bình thời gian sống sót sau khi phát triển của người lớn mắc bệnh bạch cầu tế bào T là 8 tháng.
EBV là một loại virus phổ biến mà chúng ta khá quen thuộc, nó gây ra bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Mặc dù có 95% người trưởng thành có EBV ở vùng hầu họng, nhưng may mắn thay chỉ rất ít người bị bệnh này
EBV có liên quan đến nhiều loại ung thư bao gồm ung thư tế bào lympho B và T, u ác tính cơ trơn, ung thư vòm họng, bệnh Hodgkin và bệnh lympho bào sau cấy ghép.
Virus u sarcome Kaposi HHV-8
Năm 1994, HHV-8 hay còn gọi là Kaposi sarcoma herpesvirus được kết luận có liên quan đến sự phát triển của bệnh sarcoma Kaposi, một loại ung thư gây tổn thương da và miệng (mụn) ở những người mắc bệnh AIDS. Tuy nhiên, ở những người có hệ thống miễn dịch mạnh hơn, HHV-8 hiếm khi gây nên bệnh cảnh ác tính.
Hiện nay, cách tốt nhất để ngăn ngừa virus gây ung thư thứ phát ở người (dù hiếm) là cần ngăn chặn sự tiếp xúc của con người với các loại virus có khả năng tạo ra khối u. Những biện pháp dự phòng hiệu quả sẽ được khuyến cáo riêng cho từng loại virus. Bên cạnh đó, kha học đã phát triển được một số vắc xin hiệu quả chống lại các virus này như vắc xin phòng viêm gan B và vắc xin phòng HPV.
Đối với người mất ngủ, việc bổ sung đủ magie thông qua ăn uống là một giải pháp hỗ trợ tự nhiên hiệu quả. Trong số đó, các loại hạt là một lựa chọn lành mạnh giàu magie giúp thúc đẩy thư giãn và ngủ ngon hơn.
Sự chuyển giao thời tiết luôn đi cùng những đề kháng của cơ thể. Nhưng sự chuyển giao từ thu sang đông không chỉ đơn thuần là một sự chuyển tiếp: khi mùa đông đến, bầu trời xám xịt, nhiệt độ giảm mạnh, các hoạt động trong mùa đông đặt ra những trở ngại đặc biệt và khó khăn cho các bậc cha mẹ có con cái, đặc biệt hơn là với những đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt. Nếu mùa đông là một thử thách khó khăn đối với bạn và gia đình, bạn không đơn độc. Sự thấu hiểu, sáng tạo và chuẩn bị có thể giúp bạn vượt qua mùa này.
Workshop dinh dưỡng miễn phí dành cho cha mẹ có con chậm tăng cân, hấp thu kém, nguy cơ suy dinh dưỡng, suy dinh dưỡng
Màng cầu chất béo sữa (Milk Fat Globule Membrane - MFGM) hay còn gọi là lớp màng bảo vệ chất béo trong sữa, là một cấu trúc phức tạp bao quanh giọt chất béo trong sữa mẹ hoặc sữa động vật. Nó chứa các thành phần quý phospholipid, glycoprotein và bioactive peptide có hoạt tính sinh học cao.
Khi nói đến những thực phẩm dễ tiêu hóa, chuối thường nằm trong danh sách hàng đầu và thường được khuyên dùng để làm dịu cơn đau dạ dày. Vậy tại sao một số người lại đau dạ dày khi ăn chuối?
Hạ đường huyết là một trong những nỗi lo thường trực của người mắc bệnh tiểu đường. Đây không chỉ là một chỉ số trên máy đo, mà là một tình trạng nguy hiểm có thể ập đến bất cứ lúc nào, khiến cơ thể bạn kiệt sức và mất kiểm soát. Hiểu rõ về hạ đường huyết không chỉ giúp bạn chủ động phòng tránh mà còn là chìa khóa để bảo vệ sức khỏe, thậm chí là tính mạng của chính mình.
Sức khỏe luôn là món quà vô giá và Phòng khám chuyên khoa dinh dưỡng VIAM tự hào được đồng hành cùng bạn trong hành trình gìn giữ món quà ấy.
Dinh dưỡng hợp lý là chìa khóa để bảo vệ mạch máu. Việc lựa chọn thực phẩm đúng là nền tảng giúp kiểm soát các nguy cơ như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch…