Gần 24 triệu người Mỹ mặc một vài dạng của bệnh tự miễn, chẳng hạn lupus, viêm khớp dạng thấp và tiểu đường tuýp 1. (có tới hàng trăm loại bệnh!) Không có xét nghiệm đặc hiệu cho phần lớn các bệnh này, bác sĩ thường xem xét các triệu chứng, tiền sử bệnh và các yếu tố nguy cơ trước khi đưa ra chẩn đoán.
Chẩn đoán những bệnh này không đơn giản. Một khảo sát từ Hiệp hội những bệnh tự miễn Hoa Kỳ cho thấy phần lớn bệnh nhân gặp năm bác sĩ khác nhau trong vòng 5 năm trước khi thực sự rõ nguyên nhân triệu chứng. Nhận thức sớm về những yếu tố nguy cơ chủ yếu sẽ giúp người bệnh được chẩn đoán và điều trị nhanh hơn.
Bạn có tiền sử gia đình có các vấn đề về bệnh tự miễn
Một số bệnh như lupus và đa xơ cứng có xu hướng di truyền trong gia đình. Trong một số trường hợp khác, có quan hệ gần với người bệnh tự miễn có nghĩa là bạn có nguy cơ có bệnh tự miễn nhiều hơn. Chẳng hạn, nếu mẹ bạn có bệnh Graves, bạn có thể không bị bệnh Graves nhưng bạn có nhiều nguy cơ bị viêm khớp dạng thấp.
Bạn đời có bệnh celiac
Dù không có quan hệ huyết thống, nhưng một nghiên cứu năm 2015 cho thấy kết hôn với người bị bệnh celiac làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tự miễn chẳng hạn bệnh Crohn, viêm khớp dạng thấp, hoặc lupus. Các cặp vợ chồng phơi nhiễm với nhiều yếu tố môi trường và nhiễm khuẩn như nhau, vì vậy điều này đóng vai trò trong việc phát triển bệnh tự miễn.
Bạn là phụ nữ
Nhìn chung, bệnh tự miễn xảy ra ở phụ nữ nhiều gấp ba lần nam giới, một số bệnh cụ thể đặc biệt xảy ra nhiều ở phụ nữ. Chẳng hạn, phụ nữ có nguy cư bị lupus gấp 9 lần so với nam gới và gấp đôi đối với viêm khớp dạng thấp. Nhiều phụ nữ có triệu chứng đầu tiên trong và sau khi mang thai, hormon có thể là một tác nhân.
Phụ nữ Mỹ gốc Phi, Mỹ Latinh, châu Á hoặc người Mỹ bản địa có nguy cơ tiến triển bệnh lupus gấp 3 lần phụ nữ da trắng, và họ có xu hướng bộc lộ triệu chứng từ rất sớm.
Bạn đã có một bệnh tự miễn
Không công bằng, nhưng sự thật là nếu bạn đã có một bệnh tự miễn, bạn sẽ có nguy cơ bị bệnh khác nhiều hơn. Khoảng 25% những người có bệnh tự miễn sẽ bị mắc một vài bệnh; chẳng hạn, người bị vẩy nến có nguy cơ bị viêm khớp dạng thấp, lupus, rụng tóc và/hoặc xơ cứng bì nhiều hơn. Nếu không may, người bệnh bị ba rối loạn tự miễn trở lên, gọi là hội chứng đa tự miễn (MAS).
Nên thưởng thức bưởi nguyên múi hay chế biến thành nước ép để tận dụng tối đa lợi ích sức khỏe là câu hỏi khiến không ít người băn khoăn.
Đau gối là một trong những vấn đề sức khỏe phổ biến, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động và chất lượng cuộc sống của nhiều người, đặc biệt là người cao tuổi hoặc những ai thường xuyên vận động mạnh.
Hạt chia rất nhỏ nhưng chứa nhiều dinh dưỡng và mang lại nhiều lợi ích sức khỏe. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách sử dụng hạt chia để mang lại những giá trị vượt trội.
Loãng xương được mệnh danh là “kẻ thù thầm lặng”, bởi bệnh tiến triển âm thầm nhưng có thể gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là gãy xương và biến dạng cột sống. Việc nhận biết sớm các dấu hiệu cảnh báo Loãng xương là chìa khóa để phòng ngừa và điều trị hiệu quả.
Mùa thu với không khí se lạnh và những ngày ngắn hơn có thể mang lại cảm giác dễ chịu, nhưng cũng dễ làm gián đoạn nhịp sinh học, dẫn đến khó ngủ hoặc giấc ngủ không sâu. Một giấc ngủ ngon không chỉ giúp bạn sảng khoái mà còn hỗ trợ sức khỏe thể chất và tinh thần. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ những bí quyết giúp bạn cải thiện chất lượng giấc ngủ, từ việc điều chỉnh môi trường ngủ đến xây dựng thói quen lành mạnh, để mỗi đêm đều là một trải nghiệm nghỉ ngơi trọn vẹn.
Hạt chia được mệnh danh là 'siêu thực phẩm' hỗ trợ giảm cân nhờ hàm lượng chất xơ và protein dồi dào, giúp tạo cảm giác no kéo dài, từ đó kiểm soát lượng calo nạp vào cơ thể. Bí quyết để hạt chia phát huy tối đa hiệu quả là nằm ở thời điểm và cách chế biến...
Viêm não tự miễn là bệnh xảy ra do hệ miễn dịch tấn công nhầm các tế bào não. Các triệu chứng của viêm não tự miễn có thể khác nhau nhưng có thể bao gồm mất trí nhớ, thay đổi suy nghĩ, thay đổi hành vi và co giật. Cùng tìm hiểu về bệnh lý này qua bài viết sau đây!
Xơ vữa động mạch xảy ra khi các mảng bám mỡ tích tụ dọc theo thành động mạch, khiến động mạch bị hẹp, hạn chế lưu lượng máu đến tim và các bộ phận khác của cơ thể, dễ dẫn tới nguy cơ đột quỵ.