Trong một văn bản công bố ngày 17/7, WHO cho biết các mẫu máu xét nghiệm của hai người tử vong tại vùng Ashanti phía Nam Ghana dương tính với virus Marburg. Cả hai bệnh nhân đều có các triệu chứng như tiêu chảy, sốt, buồn nôn và tử vong trong vòng một ngày sau khi nhập viện hồi cuối tháng 6. Một bệnh nhân 26 tuổi, người còn lại 51 tuổi. Hiện ít nhất 90 người khác tiếp xúc với hai bệnh nhân đã được nhận diện và chịu sự theo dõi của giới chức y tế địa phương cũng như WHO.
Theo VTV
Virus Marburg
Virus Marburg là tác nhân gây ra căn bệnh cùng tên – căn bệnh có tỉ lệ tử vong rất cao, lên đến 88%. Bệnh lần đầu được phát hiện năm 1967 sau khi bùng phát đồng thời tại 2 địa điểm là Marburg và Franfurt (Đức), và ở Belgrade (Serbia).
Bản thân virus Marburg và virus Ebola đều là thành viên của họ virus Filoviridae (filovirus). Mặc dù bản chất là 2 loại virus khác nhau, nhưng các bệnh cảnh lâm sàng của 2 căn bệnh này tương đối giống nhau. Chúng đều tương đối hiếm gặp, nhưng khi bùng phát thì tỉ lệ tử vong thường cao.
Hai đợt bùng phát lớn xảy ra đồng thời ở Marburg và Frankfurt ở Đức, và ở Belgrade, Serbia, vào năm 1967 đã dẫn đến sự công nhận lần đầu tiên của căn bệnh này. Sự bùng phát cùa căn bệnh có liên quan đến phòng thí nghiệm sử dụng khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) du nhập từ Uganda. Sau đó, các đợt bùng phát và các trường hợp lẻ tẻ đã được báo cáo ở Angola, Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Nam Phi (ở một người có lịch sử du lịch đến Zimbabwe) và Uganda. Năm 2008, hai trường hợp độc lập đã được báo cáo ở những du khách đã đến thăm một hang động, nơi loài dơi Rousettus sinh sống ở Uganda.
Sự lây truyền
Ban đầu, nhiễm virus Marburg ở người đến từ việc tiếp xúc trong thời gian dài tại các mỏ hoặc hang động – nơi có các đàn dơi Rousettus sinh sống. Tuy nhiên hiện nay, virus Marburg lây lan từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết hoặc các chất dịch cơ thể khác từ người bị nhiễm bệnh, và thậm chí thông qua các bề mặt và vật liệu bị nhiễm các dịch chất này.
Bản thân nhân viên y tế bị nhiễm bệnh khi điều trị cho bệnh nhân nghi ngờ hoặc nhiễm virus Marburg là những người có nguy cơ cao. Điều này đã xảy ra thông qua tiếp xúc gần với bệnh nhân, trong khi các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng không được thực hiện nghiêm ngặt và đảm bảo mức độ an toàn cần thiết. Lây truyền qua các thiết bị tiêm bị ô nhiễm, hoặc qua chấn thương do kim tiêm cũng có liên quan đến tình trạng bệnh nặng hơn, kéo theo suy giảm sức khỏe nhanh chóng và có thể là tỷ lệ tử vong cao hơn. Hơn nữa, việc thực hiện các nghi lễ chôn cất có các hành động tiếp xúc trực tiếp với thi thể của người quá cố mắc bệnh cũng có thể góp phần vào việc lan truyền virus Marburg. Nhìn chung, tất cả mọi người đều có thể là nguồn lây nhiễm miễn trong máu có chứa virus.
Triệu chứng của bệnh virus Marburg
Thời gian ủ bệnh (khoảng thời gian từ khi nhiễm trùng đến khi xuất hiện triệu chứng) thay đổi từ 2 đến 21 ngày.
Bệnh do virus Marburg gây ra có khởi phát đột ngột, với các triệu chứng điển hình bao gồm sốt cao, đau đầu dữ dội và sự khó chịu nghiêm trọng về mặt thể chất. Đau nhức cơ bắp là một đặc điểm phổ biến đi kèm. Tiêu chảy, đau bụng, chuột rút, buồn nôn và nôn có thể bắt đầu xuất hiện vào ngày thứ ba khi bệnh bắt đầu khởi phát. Triệu chứng tiêu chảy có thể kéo dài trong một tuần. Tại thời điểm này, bệnh nhân được mô tả các đặc điểm "giống như bóng ma": đôi mắt sâu do mất nước, khuôn mặt vô cảm và tình trạng thờ ơ cực độ. Trong đợt bùng phát ở châu Âu năm 1967, tình trạng phát ban không ngứa là một đặc điểm được ghi nhận ở hầu hết bệnh nhân sau 2 đến 7 ngày khởi phát các triệu chứng.
Nhiều bệnh nhân có biểu hiện xuất huyết nặng sau 5 đến 7 ngày khởi phát bệnh, và các ca tử vong thường có kèm một số dạng chảy máu, đại đa phần đến từ nhiều khu vực cơ thể. Máu tươi trong chất nôn và phân thường đi kèm với chảy máu mũi, nướu và âm đạo. Chảy máu tự phát tại các vị trí tiêm tĩnh mạch (nơi truyền dịch hoặc lấy máu). Trong giai đoạn nặng của bệnh, bệnh nhân sốt cao. Bệnh nhân có thể gặp phải các rối loạn thần kinh như nhầm lẫn, khó chịu và hung hăng. Viêm tinh hoàn (viêm một hoặc cả hai bên tinh hoàn) đã được báo cáo gặp phải ở một số trường hợp trong giai đoạn cuối của bệnh (15 ngày sau khởi phát bệnh).
Đối với các trường hợp tử vong, các trường hợp này xảy ra thường xuyên nhất trong khoảng từ 8 đến 9 ngày sau khi khởi phát triệu chứng, và thường xảy ra trước khi mất máu nghiêm trọng và sốc.
Bệnh có thể khó phân biệt trên lâm sàng với các bệnh truyền nhiễm khác như sốt rét, sốt thương hàn, bệnh Shigella, viêm màng não và các bệnh sốt xuất huyết do virus khác. Việc xác nhận các triệu chứng là do virus Marburg gây ra được thực hiện bằng các phương pháp chẩn đoán như sau:
Các mẫu được thu thập từ bệnh nhân là một nguy cơ nguy hiểm sinh học cực độ; thử nghiệm trong phòng thí nghiệm trên các mẫu không bất hoạt nên được tiến hành trong điều kiện ngăn chặn sinh học tối đa. Tất cả các mẫu sinh học nên được đóng gói bằng hệ thống đóng gói khi vận chuyển trong nước và quốc tế.
Điều trị và vaccine
Hiện tại không có vaccine hoặc phương pháp điều trị kháng virus nào được chấp thuận cho điều trị bệnh do virus Marburg. Tuy nhiên, các phương pháp chăm sóc nâng cao - bù nước bằng dịch miệng hoặc tĩnh mạch - và điều trị các triệu chứng cụ thể sẽ cải thiện khả năng sống sót của người bệnh.
Một số kháng thể đơn dòng đang được phát triển và một số loại thuốc kháng virus, ví dụ như Remdesivir và Favipiravir cũng đã được sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng để điều trị bệnh do virus Ebola, và cũng có thể được thử nghiệm hoặc được sử dụng trong điều trị bệnh do virus Marburg.
Vào tháng 2020 năm 26, Cơ quan quản lý dược phẩm châu Âu đã cấp phép cho 2 loại vaccine là Zabdeno (Ad26.ZEBOV) và Mvabea (MVA-BN-Filo) sử dụng trong việc chống lại virus Marburg. Mvabea chứa một loại virus được gọi là Vaccinia Ankara Bavarian Nordic (MVA) đã được sửa đổi để sản xuất 4 protein từ Zaire ebolavirus và ba loại virus khác cùng nhóm (filoviridae). Vaccine có khả năng bảo vệ chống lại virus Marburg, nhưng hiệu quả của nó chưa được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng.
Virus Marburg ở động vật
Loài dơi Rousettus aegyptiacus được coi là vật chủ tự nhiên của virus Marburg, trong khi loài dơi ăn quả hiện chưa rõ có phải là vật chủ của virus này hay không. Do đó, sự phân bố địa lý của virus Marburg có thể trùng lặp với phạm vi địa lý của dơi Rousettus.
Loài khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) được du nhập từ Uganda được coi là nguồn lây nhiễm cho con người trong đợt bùng phát bệnh Marburg đầu tiên.
Việc thử nghiệm các loại virus Ebola khác nhau trên lợn đã báo cáo cho thấy lợn là nhóm động vật nhạy cảm với filovirus và cũng dễ loại bỏ virus này. Do đó, lợn được coi là vật chủ khuếch đại tiềm năng trong các đợt bùng phát. Mặc dù chưa có động vật nuôi nào khác được xác nhận là có liên quan đến sự bùng phát filovirus, tuy nhiên một biện pháp phòng ngừa được đưa ra là cần thiết cho đến khi các nghiên cứu tiến hành chứng minh điều này.
Các biện pháp phòng ngừa là cần thiết trong các trang trại lợn ở châu Phi để tránh lợn bị nhiễm bệnh khi tiếp xúc với dơi ăn quả. Sự lây nhiễm như vậy có khả năng khuếch đại virus và gây ra hoặc góp phần vào sự bùng phát diện rộng.
Phòng ngừa và kiểm soát dịch
Kiểm soát dịch bệnh tốt cần dựa vào việc áp dụng một loạt các biện pháp can thiệp cụ thể, như quản lý ca bệnh, giám sát và truy tìm sự liên lạc giữa các ca bệnh, quản lý phòng thí nghiệm tốt, chôn cất an toàn và huy động toàn xã hội tham gia. Sự tham gia của cộng đồng là chìa khóa để kiểm soát thành công các đợt bùng phát dịch. Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ lây nhiễm virus Marburg và các biện pháp bảo vệ mà các cá nhân có thể thực hiện là một cách hiệu quả để giảm lây truyền ở người.
Thông điệp giảm thiểu rủi ro nên tập trung vào một số yếu tố:
Sự tồn tại dai dẳng của virus Marburg ở những người đang hồi phục sau bệnh
Virus Marburg được biết là tồn tại ở các vị trí đặc quyền miễn dịch – đặc biệt là ở một số trường hợp đã khỏi bệnh. Những vị trí này bao gồm tinh hoàn và bên trong mắt.
Tình trạng xuất hiện triệu chứng tái phát nhưng không tái nhiễm ở một số trường hợp đã hồi phục sau bệnh là một tình trạng hiếm gặp, song đã được ghi nhận. Hiện tượng này cho đến nay vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ.
Sự lây truyền virus Marburg qua tinh dịch bị nhiễm bệnh đã được ghi nhận trong khoảng thời gian lên đến 07 tuần sau khi hồi phục về mặt lâm sàng. Vẫn cần có thêm nhiều dữ liệu nghiên cứu giám sát về nguy cơ lây truyền qua đường tình dục, và đặc biệt là về sự phổ biến của virus có thể lây truyền trong tinh dịch theo thời gian. Hiện tại, dựa trên bằng chứng hiện có, WHO khuyến cáo rằng:
Bảng thống kê các đợt bùng phát dịch do Virus Marburg
Năm |
Quốc gia |
Ca mắc |
Tử vong |
Tỉ lệ tử vong |
2017 |
Uganda |
3 |
3 |
100% |
2014 |
Uganda |
1 |
1 |
100% |
2012 |
Uganda |
15 |
4 |
27% |
2008 |
Hà Lan (du nhập từ Uganda) |
1 |
1 |
100% |
2008 |
Mỹ (du nhập từ Uganda) |
1 |
0 |
0% |
2007 |
Uganda |
4 |
2 |
50% |
2005 |
Angola |
374 |
329 |
88% |
1998 - 2000 |
Cộng hòa Dân chủ Congo |
154 |
128 |
83% |
1987 |
Kenya |
1 |
1 |
100% |
1980 |
Kenya |
2 |
1 |
50% |
1975 |
Nam Phi |
3 |
1 |
33% |
1967 |
Yugoslavia |
2 |
0 |
0% |
1967 |
Đức |
29 |
7 |
24% |
Tham khảo thêm thông tin tại: Sự bùng phát và tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu của bệnh đậu mùa khỉ - thông tin từ WHO
Thoát vị hoành, hay thoát vị khe hoành, xảy ra khi phần trên của dạ dày bị đẩy lên ngực thông qua một lỗ mở ở cơ hoành (cơ ngăn cách bụng với ngực). Tình trạng này xảy ra ở nơi dạ dày và thực quản của bạn nối lại với nhau, còn được gọi là ngã ba thực quản dạ dày. Đôi khi, thoát vị khe hoành không gây ra vấn đề gì và không cần điều trị.
Đau chân khi đứng lâu là tình trạng mà nhiều người gặp phải. Tuy nhiên, bạn hoàn toàn có thể khắc phục vấn đề này bằng một vài thay đổi nhỏ trong thói quen sinh hoạt hàng ngày
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh vẩy nến khác nhau tùy thuộc vào từng người và loại bệnh vẩy nến. Mặc dù bệnh vẩy nến là tình trạng mãn tính kéo dài suốt đời, một số người có thể thấy các triệu chứng biến mất trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Bạn có bỏ qua mũi tiêm phòng cúm hàng năm vì bạn ghét bị tiêm không? Điều đó có thể hiểu được. Nhưng đừng để điều đó ngăn cản bạn tiêm vắc-xin. Có một lựa chọn khác: dành cho bạn: vắc-xin xịt mũi.
Chắc hẳn ai cũng đã từng nghe qua câu chuyện dùng tiếng ồn trắng giúp các bé sơ sinh ngủ ngon và sâu giấc. Vậy đã bao giờ bạn thắc mắc, có những loại tiếng ồn nào và đâu là tiếng ồn dành cho người lớn? Mọi câu hỏi sẽ được giải đáp ngay sau đây.
Ngày càng nhiều người trẻ bị đau thần kinh tọa với biểu hiện đau phần lưng dưới lan xuống chân. Để kiểm soát cơn đau thần kinh tọa, người bệnh cần điều chỉnh từ thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh