Viêm mủ màng ngoài tim là tình trạng khoang màng ngoài tim bị viêm nhiễm, mất bóng và thường chứa một lượng bất thường dịch dạng mủ có thể gây cản trở chức năng tống máu của tim ít hay nhiều tùy tốc độ tích lũy và khối lượng dịch.
Đây là một bệnh cảnh rất phổ biến và nặng nhất của tràn dịch màng ngoài tim mà nguyên nhân là do các vi khuẩn gây mủ, đặc biệt là tụ cầu vàng và phế cầu xâm nhập khoang màng tim theo đường máu hoặc đường kế cận, gây tổn thương viêm dưới dạng mủ tại khoang màng ngoài tim.
Nguyên nhân do đâu?
Cách phát hiện sớm
Khi mắc, bệnh nhân có biểu hiện toàn thân, điển hình và nổi bật là tình trạng nhiễm khuẩn, nhiễm độc phối hợp với tình trạng khó thở do chèn ép tim. Trong trường hợp bệnh kéo dài, suy dinh dưỡng xảy ra rất sớm. Ngoài ra còn có thể gặp các biểu hiện hoặc những triệu chứng của bệnh nguyên nhân và là đường của nhiễm khuẩn màng tim, đặc biệt là các nhiễm khuẩn da và phần mềm (chốc lở, mụn nhọt, viêm quầng, viêm tổ chức da, viêm cơ), viêm xương, viêm mủ khớp, viêm phổi.
Biểu hiện của tràn dịch màng ngoài tim
Trên lâm sàng có thể gặp các biểu hiện của tràn dịch màng ngoài tim khác nhau tùy giai đoạn diễn biến bệnh và mức độ nặng của tràn dịch.
Ở giai đoạn khởi phát, chủ yếu là triệu chứng bệnh nguyên (ổ bệnh nguyên phát), kèm theo mệt mỏi, đau vùng trước tim và tiếng cọ màng tim. Giai đoạn này có thể từ vài giờ đến nhiều ngày.
Ở giai đoạn toàn phát, thường có đầy đủ các biểu hiện sau đây do tràn dịch màng ngoài tim: đau vùng trước tim, đau tăng khi nằm ngửa, dịu đi khi ngồi cúi ra trước; ho, khó thở, tím tái; ứ đọng ngoại vi: phù, gan to, tĩnh mạch cổ nổi, đái ít; mạch nhanh, nhỏ; ngực lặng (không nhìn thấy tim đập). Khi khám thấy tiếng tim mờ (xa xăm); Mạch đảo (pulsus paradoxus) là dấu hiệu đặc trưng của chèn ép tim cấp. Có thể chỉ biểu hiện kín đáo là mạch yếu đi rõ rệt ở thì thở vào. Nhưng chắc chắn và rõ rệt nhất là sự thay đổi huyết áp. Bình thường HA tối đa lúc thở vào sâu thấp hơn lúc ngừng thở là 10mmHg, khi thấp hơn 10-20 là nghi ngờ, thấp hơn 20 là chắc chắn có tràn dịch màng tim (nếu bệnh nhân không thở máy, không mắc bệnh hen và khí phế thũng). Hiện tượng này xảy ra do thất phải nở to trong khi thở vào chèn ép tâm thất trái đang bị dịch màng ngoài tim hạn chế khả năng giãn nở nên không hút đủ lượng máu thông thường để tống ra ngoại biên. Mạch đảo là dấu hiệu rất quan trọng trong bệnh cảnh tràn dịch màng ngoài tim, chứng tỏ đang có ép tim cấp, vì còn có thể gặp trong viêm dày dính màng ngoài tim, hen phế quản nặng, bệnh cơ tim hạn chế, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, sốc giảm thể tích.
Ngoài ra, đối với nhiều trường hợp làm các xét nghiệm thấy có những biểu hiện nhiễm khuẩn toàn thân: do các ổ bệnh tiên phát hoặc do nung mủ màng ngoài tim. Đó là biểu hiện phản ứng viêm cấp tính, bao gồm: số lượng bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao trong máu ngoại vi; protein C phản ứng (C reative protein: CRP) tăng cao; tốc độ lắng máu tăng cao; cấy máu đôi khi tìm thấy vi khuẩn gây bệnh, đa số là tụ cầu, nhưng có thể gặp liên cầu, Hemophilus Influenzae và một số vi khuẩn hiếm gặp khác.
Cấy mủ tại các ổ tổn thương nguyên phát ở da, cơ, xương hoặc khớp có thể phát hiện được các vi khuẩn gây tràn dịch màng ngoài tim. Và những biểu hiện cận lâm sàng do tràn dịch màng ngoài tim cấp tính.
Dễ nhầm lẫn
Trước đây, khi chẩn đoán siêu âm chưa phổ biến, cần dựa vào kết quả chọc dò màng tim, ngày nay có thể dựa vào một trong hai kết quả sau: hình ảnh siêu âm có lượng dịch bất thường trong khoang màng tim; chọc dò màng tim. Tuy nhiên, trên lâm sàng cần chẩn đoán phân biệt với một số trường hợp sau: tràn dịch màng tim trong bệnh cảnh có sốt: thấp tim, viêm màng ngoài tim trong đợt cấp của các bệnh tạo keo, đặc biệt đợt cấp của Lupus ban đỏ rải rác, viêm màng ngoài tim co thắt (Hội chứng Pick), thường do lao hoặc tràn mủ màng tim không điều trị hoặc điều trị quá muộn...
Lời khuyên của thầy thuốc
Để phòng bệnh, cần vệ sinh cơ thể sạch sẽ, đặc biệt là trẻ nhỏ, tránh nhiễm khuẩn da và phần mềm (chốc lở, mụn nhọt, viêm quầng, viêm tổ chức da, viêm cơ), viêm xương, viêm mủ khớp, viêm phổi. Khi có các biểu hiện nghi ngờ như: có biểu hiện nhiễm khuẩn, nhiễm độc, có những biểu hiện bệnh ngoài da, phần mềm, xương khớp, viêm phổi, đau ngực, khó thở không tương xứng với bệnh cảnh tại phổi... cần đến cơ sở y tế để được khám và chẩn đoán kịp thời. Chẩn đoán và điều trị sớm các tình trạng bệnh có thể tránh gây biến chứng viêm mủ màng tim.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tăng huyết áp ở trẻ em: nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.