Còi xương là một bệnh phổ biến ở trẻ em. Tỷ lệ mắc bệnh ở lứa tuổi dưới 2 năm là 10-20% nhưng ở 3-6 tháng có thể lên đến 35%. Nguyên nhân đưa đến còi xương ở lứa tuổi dưới 6 tháng chủ yếu là do bé không được cung cấp đầy đủ vitamin D. Nếu trẻ nuôi bằng sữa mẹ thì chính là do chế độ ăn của người mẹ cho con bú không đủ vitamin D.
Một yếu tố quan trọng nữa là vai trò của tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời kích hoạt chất tiền vitamin D3 dưới da chuyển thành vitamin D3 được hấp thụ vào máu dẫn đến giảm hấp thu canxi ở ruột, cơ thể phải huy động canxi ở xương vào máu, gây rối loạn quá trình khoáng hóa xương. Vì vậy khi điều trị còi xương bằng vitamin D cần bổ sung canxi để giúp xương phát triển bình thường.
Các biến chứng do còi xương ở trẻ em.
Vitamin D có ở đâu?
Các chất tiết của da ở người chứa một chất gọi là tiền vitamin D3. Trong điều kiện bình thường chất tiền vitamin này được hoạt hoá bởi các tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời và chuyển thành vitamin D3 được hấp thu vào máu. Tuy nhiên, nếu ánh sáng mặt trời chiếu qua lớp kính cửa thông thường sẽ bị cản mất tia tử ngoại nên không còn có khả năng chống bệnh còi xương. Trong thức ăn tự nhiên của trẻ còn bú chỉ chứa những lượng nhỏ vitamin D, sữa mẹ có rất ít vitamin D và sữa bò chỉ có 5-40 đơn vị quốc tế trong 1,135 lít. Ngũ cốc, rau quả chỉ chứa lượng không đáng kể. Trong 1g lòng đỏ trứng có từ 140-390 đơn vị quốc tế vitamin D. Ngoài nguyên nhân thiếu vitamin D do chế độ ăn hoặc do da không nhận được tia tử ngoại (nhất là mùa đông xuân miền Bắc nước ta ít nắng) còn có nhiều yếu tố khác khiến bệnh còi xương dễ xuất hiện như ở thời kỳ lớn nhanh của tuổi còn bú, trẻ đẻ non hoặc tuổi dậy thì. Những trẻ em có rối loạn hấp thu như tiêu chảy kéo dài, bệnh viêm tụy, bệnh đại tiện mỡ hoặc bệnh xơ nang có thể mắc bệnh còi xương vì không hấp thu được vitamin D hay canxi hoặc không hấp thu được cả hai loại này. Ở những trẻ có bệnh gan (đặc biệt là tắc mật hay xơ gan), bệnh còi xương cũng có thể xuất hiện vì nó không có năng lực hấp thu vitamin D hay canxi.
Nhận biết trẻ còi xương
Bệnh còi xương do cung cấp thiếu vitamin D trong chế độ ăn hằng ngày trở nên hiếm, nhất là các nước công nghiệp phát triển, nên phần lớn các bệnh còi xương hiện nay là do nguồn gốc nội sinh tức là kháng lại vitamin D liều lượng thông thường (400 - 1.000 đơn vị quốc tế trong một ngày). Bệnh còi xương kháng vitamin D thường xuất hiện kết hợp với nhiều rối loạn phức tạp. Phần lớn là những bệnh có tính di truyền. Nói chung bệnh còi xương kháng vitamin D này biểu hiện như một bệnh còi xương muộn. Bệnh này thường bộc lộ sau lứa tuổi bú mẹ, từ 3-7 tuổi, đứa trẻ có tầm vóc lùn và có những biến dạng ở các chi như chân hoặc tay ở tư thế cong vào (hình chữ O), hay cong ra (hình chữ X). Những hiện tượng này ngày càng rõ nếu đứa trẻ càng vận động nhiều. Có nhiều trường hợp tự nhiên đứa trẻ bị liệt, không thể đi đứng được vì các xương, nhất là các xương đùi, xương cẳng tay, xương cánh tay, cẳng chân, đôi khi cả xương chậu nữa đã bị gãy tại nhiều đoạn do xương quá mềm và thiếu chất vôi. Trường hợp gãy xương không do chấn thương này gọi là gãy xương bệnh lý.
Ðiều trị thế nào?
Điều trị bệnh còi xương phải dùng vitamin D liều cao, liều tấn công theo chỉ định của bác sĩ. Còn liều dự phòng chỉ uống vitamin D từ 400-800 đơn vị/ngày trong vòng 1 năm. Trường hợp còi xương bệnh lý có thể dùng liều rất cao tới 5.000-50.000 đơn vị/ngày trong nhiều tháng, đồng thời phải kết hợp với giải phẫu chỉnh hình nếu có biến dạng xương.
Có thể phòng ngừa còi xương cách nào?
Còi xương là bệnh hoàn toàn có thể phòng ngừa được. Tất cả các bà mẹ đang cho con bú (dưới 6 tháng) đặc biệt là trong mùa đông xuân, nhu cầu vitamin D ước lượng chừng 500 đơn vị quốc tế mỗi ngày. Trong điều kiện có thể nên nhất loạt cho mỗi trẻ, từ tuần thứ 2 sau khi sinh trở đi mỗi ngày 400 đơn vị quốc tế vitamin D dưới dạng đậm đặc, ít ra là trong 6-12 tháng đầu.
Với trẻ đẻ thấp cân dễ bị còi xương là do cơ thể không dự trữ đủ canxi và vitamin D trong thời kỳ bào thai, đồng thời hệ thống men tham gia chuyển hóa vitamin D còn yếu, vì vậy những trẻ này cần được bổ sung vitamin D và canxi để phòng bệnh còi xương.
Cá là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt là omega-3 rất tốt cho tim và chức năng não. Vậy nên ăn cá thế nào để nhận được nguồn omega-3 tốt nhất?
Tiêu chảy thường được hiểu là tình trạng đi ngoài phân lỏng, nhiều nước và số lần nhiều hơn bình thường.
Thịt lợn là một trong những loại thịt phổ biến nhất nhưng ít người chú ý tới giá trị dinh dưỡng của nó. Không chỉ là nguồn cung cấp protein dồi dào cho cơ bắp, thịt lợn còn chứa một lượng lớn vitamin, khoáng chất thiết yếu mà cơ thể cần để duy trì năng lượng và các chức năng quan trọng.
Cong vẹo cột sống ở trẻ em là tình trạng cột sống bị cong bất thường sang một bên (thường là chữ C hoặc S), có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất và tinh thần nếu không được phát hiện và điều trị sớm. Đọc bài viết dưới đây để tìm hiểu về tình trạng này ở trẻ!
Gạo lứt có nhiều lợi ích cho sức khỏe vì hàm lượng chất xơ, vitamin và chất chống oxy hóa. Tuy nhiên, với một số nhóm người, gạo lứt có thể không phù hợp hoặc cần thận trọng khi ăn.
Tiêm chủng là một trong những biện pháp y tế công cộng hiệu quả nhất để bảo vệ trẻ em khỏi những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Việc giảm lượng natri tiêu thụ là một bước quan trọng để kiểm soát huyết áp, giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đột quỵ và bệnh thận mạn tính. Tham khảo một số gia vị có hương liệu tự nhiên tuyệt vời có thể thêm vị ngon đậm đà cho món ăn để giảm tiêu thụ muối ăn truyền thống.
Đi bộ là một hoạt động đơn giản nhưng lại ẩn chứa vô vàn lợi ích cho sức khỏe thể chất và tinh thần. Trong cuộc sống bận rộn, đi bộ trở thành một giải pháp lý tưởng, dễ dàng thực hiện ở mọi lứa tuổi và không đòi hỏi thiết bị phức tạp. Chỉ với 30 phút đi bộ mỗi ngày, bạn có thể cải thiện sức khỏe tim mạch, kiểm soát cân nặng, giảm căng thẳng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Bài viết này sẽ phân tích những lợi ích bất ngờ mà thói quen đi bộ mang lại, đồng thời đưa ra các mẹo để tối ưu hóa hiệu quả của hoạt động này.