Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Nguyên nhân và những yếu tố nguy cơ của viêm khớp dạng thấp - Phần 1

Mọi người hay nghĩ rằng viêm khớp dạng thấp và viêm xương khớp là cùng 1 bệnh. Tuy nhiên, đây là hai căn bệnh hoàn thoàn khác nhau.

Viêm xương khớp là do tổn thương lâu dài của khớp, còn viêm khớp dạng thấp là một căn bệnh phức tạp và khó hiểu hơn, khi hệ miễn dịch của cơ thể tấn công các tế bào và mô của chính cơ thể đó, bao gồm cả khớp, da và các nội tạng.

Giống như các rối loạn tự miễn dịch khác như lupus và bệnh vẩy nến, nguyên nhân gây viêm khớp dạng thấp vẫn còn chưa được hiểu rõ. Điều ta đã biết là một số yếu tố - bao gồm hút thuốc và béo phì – không chỉ có thể khiến nguy cơ mắc bệnh tăng cao mà còn gặp phải các triệu chứng tồi tệ hơn.

Nguyên nhân phổ biến

Viêm khớp dạng thấp xảy ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể “bị lỗi”. Thông thường thường, cơ thể tạo ra các protein phòng thủ (được gọi là kháng thể) được "lập trình" để tìm và tấn công tác nhân gây bệnh (được gọi là kháng nguyên).

Vì những lý do không rõ, cơ thể đôi khi sẽ tạo ra các kháng thể nhầm lẫn các tế bào bình thường thành những tế bào có hại. Tùy thuộc vào từng loại bệnh, bệnh tự miễn có thể xảy ra trên toàn cơ thể (ảnh hưởng đến nhiều cơ quan) hoặc có xác định (ảnh hưởng đến 1 hoặc nhiều hệ cơ quan).

Ở viêm khớp dạng thấp, một phần của hệ miễn dịch “lập trình” sai các kháng thể nhắm tới các khớp xương. “Thủ phạm” của sự bất thường này được cho là do các biến thể của hệ thống kháng nguyên bạch cầu ở người (HLA), là vùng kiểm soát các phản ứng miễn dịch.

Các gene có khả năng đóng vai trò trong sự bất thường bao gồm:

  • STAT4: Một gene đóng vai trò trong việc điều hòa và kích hoạt các phản ứng miễn dịch
  • TRAF1 và C5: 2 gene có liên quan tới tình trạng viêm mạn tính
  • PTPN22: Một gen có liên quan tới cả quá trình hình thành cũng như sự tiến triển của viêm khớp dạng thấp

Có thể chỉ một tổ hợp các biến thể của gene hoặc/và các đột biến gene cũng là đủ để kích hoạt bệnh. Nhưng không phải tất cả những ai mang gene này đều sẽ bị viêm khớp dạng thấp và cũng không phải tất cả những người bị viêm khớp dạng thấp đều có những gene này.

Điều này gợi ý răng· có khả năng các yếu tố khác có thể kích hoạt phản ứng tự miễn dịch, đặc biệt là nếu bạn có nguy cơ mắc viêm khớp dạng thấp cao do di truyền. Một giả thiết cho rằng vi khuẩn hoặc virus nào đó có thể vô tình gây "nhầm lẫn" cho hệ miễn dịch. Bốn bệnh nhiễm trùng có thể kích hoạt viêm khớp dạng thấp ở một số người bao gồm:

  • Virus Epstein-Barr (EBV)
  • Escherichia coli (E. coli)
  • Virus viêm gan C (HCV)
  • Mycobacterium

Các nhà khoa học tin rằng có thể có phản ứng chéo giữa các kháng nguyên này và một số tế bào bình thường của cơ thể. Như vậy, các kháng thể được sản xuất để đáp ứng với EBV có thể sẽ coi EBV và tế bào bình thường là như nhau. Khi đó, cho dù tình trạng nhiễm EBV đã được giải quyết thì cơ thể vẫn sẽ luôn trong trạng thái cảnh giác cao độ và sẵn sàng phản ứng với bất kì tế bào nào nghi ngờ là EBV.

Cũng có thể có các yếu tố khác làm cho hệ thống miễn dịch bị trục trặc. Với một số yếu tố, ta có thể thay đổi được chúng nhưng với một số khác thì không.

Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi

Viêm khớp dạng thấp có ảnh hưởng đến một vài nhóm nhất định nhiều hơn các nhóm khác. Ba yếu tố không thể thay đổi thường liên quan đến căn bệnh này là tuổi tác, giới tính và tiền sử gia đình mắc viêm khớp dạng thấp (di truyền).

Tuổi tác

Trong khi viêm khớp dạng thấp có thể tấn công ở mọi lứa tuổi, khởi phát của các triệu chứng thường bắt đầu ở độ tuổi từ 40 đến 60. Hơn nữa, nguy cơ sẽ tăng lên khi tuổi tác ngày càng tăng.

Giới tính

Phụ nữ có nguy cơ bị viêm khớp dạng thấp cao gấp ba lần so với nam giới. Tuy lời giải thích cho sự khác biệt này là chưa rõ ràng, các hormone ở nữ giới được cho là có vai trò trong việc hình thành bệnh.

Điều này được chứng minh một phần bởi một nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh thường sẽ xuất hiện sau khi có một thay đổi hormone lớn. Điều này đôi khi xảy ra ngay lập tức sau khi mang thai hoặc song song với thời gian đầu của thời kỳ mãn kinh. Nguyên nhân được cho là do hormone Estrogen, và đặc biệt là sự suy giảm hormone này.

Mặt khác, sử dụng liệu pháp thay thế estrogen có thể cung cấp một lợi ích bảo vệ cho phụ nữ lớn tuổi, những người có nguy cơ mắc bệnh cao.

Những người phụ nữ trẻ đang sử dụng thuốc tránh thai cũng có thể cũng có được lợi ích như vậy. Theo các nhà nghiên cứu tại Viện Karolinska ở Stockholm, những phụ nữ đã sử dụng thuốc tránh thai có chứa estrogen trong hơn 7 năm đã giảm gần 20% nguy cơ bị viêm khớp dạng thấp phổ biến nhất so với những phụ nữ chưa bao giờ sử dụng thuốc tránh thai.

Di truyền

Những người có cha mẹ hoặc anh chị em ruột mắc viêm khớp dạng thấp có nguy cơ mắc bênh cao gấp 3 lần so với người bình thường. Hay kể cả có họ hàng gần bị bệnh cũng sẽ làm nguy cơ mắc bệnh tăng gấp đôi. Những con số này giúp minh họa vai trò trung tâm của di truyền  trong sự phát triển của rối loạn tự miễn dịch.

Theo một nghiên cứu năm 2016 được công bố trên tạp chí Lancet, yếu tố di truyền chiếm khoảng 40% đến 65% trong tất cả các trường hợp được xác nhận. Trong khi các đột biến di truyền chính xác vẫn chưa được xác định, những người bị bệnh tự miễn được cho là có một hoặc nhiều đột biến làm thay đổi cách hệ thống miễn dịch nhận biết và nhắm vào các tác nhân gây bệnh.

Một trong những nghi ngờ chính là gene HLA-DR4, một trong những biến thể gene có liên quan đến các bệnh tự miễn khác như lupus, viêm đa khớp dạng thấp hay viêm gan tự miễn. Nghiên cứu từ đại học Michigan cũng đã kết luận rằng những người mang một dấu hiệu di truyền khác liên quan tới HLA cũng có nguy cơ mắc viêm khớp dạng thấp cao gấp 5 lần những người không mang dấu hiệu di truyền này.

(Còn tiếp...)

Đón đọc phần tiếp theo trong website của Viện Y học úng dụng Việt Nam: vienyhocungdung.vn

CTV Võ Dung - Viện Y học ứng dụng Việt Nam - Theo Very Well Health
Bình luận
Tin mới
  • 25/04/2024

    Dấu hiệu cho thấy cơ thể đang thiếu hụt protein

    Protein là một chất dinh dưỡng rất quan trọng đối với sức khỏe. Khi cơ thể thiếu hụt protein sẽ xuất hiện một số dấu hiệu cảnh báo..

  • 25/04/2024

    Dùng thuốc an toàn khi đang cho con bú

    Nếu bạn đang cho con bú sữa mẹ, bạn đang cho con bạn một khởi đầu khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu cần dùng thuốc, bạn có thể thắc mắc về việc thuốc có thể ảnh hưởng đến sữa mẹ như thế nào. Bài viết dưới đây là những gì bạn cần biết.

  • 25/04/2024

    Cẩn trọng với thói quen bóc da môi

    Bóc da môi là một thói quen không lành mạnh phổ biến ở nhiều người. Dù là vô tình hay hữu ý, nó có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự khỏe đẹp của đôi môi.

  • 25/04/2024

    Tập thể dục khi mang thai

    Duy trì thói quen tập thể dục thường xuyên trong suốt thai kỳ có thể giúp bạn khỏe mạnh và cảm thấy tốt nhất. Tập thể dục cũng có thể cải thiện tư thế của bạn và giảm một số khó chịu thường gặp như đau lưng và mệt mỏi. Một số bằng chứng cho thấy tập thể dục có thể ngăn ngừa bệnh tiểu đường thai kỳ (bệnh tiểu đường phát triển trong thai kỳ), giảm căng thẳng và tăng cường sức chịu đựng cần thiết cho quá trình chuyển dạ và sinh nở.

  • 24/04/2024

    Ngủ không quá 5 giờ mỗi đêm khiến da chảy xệ và nhiều nếp nhăn gấp đôi

    Thiếu ngủ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây lão hoá da. Nghiên cứu cho thấy người ngủ không đủ giấc làm tăng gấp đôi nếp nhăn và sự chảy xệ da so với người có giấc ngủ chất lượng.

  • 24/04/2024

    Mẹo chăm sóc da dầu mùa Hè

    Nhiệt độ cao kết hợp với ánh nắng khiến tuyến bã nhờn trên da hoạt động mạnh mẽ, da đổ nhiều dầu và dễ nổi mụn. Một vài mẹo chăm sóc da dưới đây giúp bạn kiểm soát dầu nhờn trên da.

  • 24/04/2024

    Nỗi lo an toàn thực phẩm mùa nắng nóng

    Thời tiết nắng nóng càng làm tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm. Cùng với sự quản lý của cơ quan chức năng, người dân cần nâng cao ý thức trách nhiệm, bởi nếu xuê xoa với bất kỳ vi phạm an toàn thực phẩm dù là nhỏ cũng gây hậu quả khôn lường.

  • 24/04/2024

    Tránh ăn gì khi bị viêm kết mạc để nhanh khỏi?

    Tuy chế độ ăn không giúp chữa khỏi viêm kết mạc (đau mắt đỏ) nhưng việc hạn chế ăn một số loại thực phẩm, đồ uống có thể giúp giảm bớt các triệu chứng và thúc đẩy quá trình phục hồi nhanh hơn.

Xem thêm