Nguyên nhân khiến trẻ lớn đái dầm?
Để biết nguyên nhân nào khiến trẻ lớn đái dầm, điều đầu tiên bạn cần biết là các loại đái dầm ở trẻ.
Đái dầm có thể là đái dầm tiên phát (primary) và đái dầm thứ phát (secondary). Đái dầm tiên phát là khi trẻ thường xuyên đái dầm, kể từ khi còn rất nhỏ và chưa bao giờ trẻ thôi đái dầm cả. Ví dụ, nếu trẻ đã 7 tuổi nhưng vẫn thường xuyên đái dầm kể từ khi còn nhỏ, chưa bao giờ ngừng cả, thì đó là đái dầm tiên phát. Tuy nhiên, nếu trẻ đã ngừng một thời gian (ít nhất 6 tháng) nhưng sau đó lại tiếp tục đái dầm, thì đó là đái dầm thứ phát.
Nguyên nhân đái dầm tiên phát
Đái dầm là một hiện tượng vô cùng phổ biến ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Thông thường, đa số trẻ đều sẽ bỏ được tật đái dầm khi trẻ lên 3 tuổi. Một số ít trẻ khác sẽ bỏ được tật đái dầm khi lên 5 tuổi. Tuy nhiên, một số trẻ lại vẫn tiếp tục đái dầm khi đang học tiểu học, thậm chí là sau 7 tuổi. Đái dầm tiên phát có thể có nguyên nhân như sau:
Quá trình phát triển bị tạm ngừng: là nguyên nhân phổ biến nhất của đái dầm tiên phát. Thông thường, cơ thể sẽ phát triển khả năng kiểm soát bàng quang để trẻ “đi tè” sau khi đã thức dậy. Nhưng với một số trẻ, khả năng kiểm soát này không phát triển hoặc phát triển chậm, do vậy, trẻ không thể giữ nước tiểu trong bàng quang vào buổi tối, dẫn đến đái dầm.
Ngủ sâu: những trẻ ngủ rất sâu đôi khi sẽ bị “bỏ lỡ” tín hiệu của não bộ truyền tới bàng quang thông báo rằng bàng quang đã đầy, và do vậy, dẫn đến tình trạng đái dầm.
Thói quen đại tiểu tiện không tốt trong suốt cả ngày có thể là một trong số những nguyên nhân chính gây đái dầm. Những trẻ mải vui chơi trong suốt cả ngày và quên đi chuyện “đi tè” có thể sẽ khiến trẻ có nhu cầu “đi tè” nhiều hơn vào buổi tối.
Hormone chống bài niệu (ADH) sẽ khiến cơ thể không thải ra nước tiểu vào buổi tối. Nếu cơ thể trẻ không sản xuất ra đủ loại hormone này thì sau đó cơ thể sẽ sản xuất ra nhiều nước tiểu hơn vào buổi tối. Cùng với việc không kiểm soát được bàng quang, tình trạng này có thể dẫn đến đái dầm ở trẻ lớn.
Bất thường về cấu trúc giải phẫu cũng có thể dẫn đến tình trạng đái dầm.
Đôi khi, yếu tố di truyền cũng là lý do của tình trạng đái dầm. Theo một số nghiên cứu, trong gia đình mà cả bố mẹ mắc phải tình trạng tiểu đêm thì 44% số trẻ sẽ phát triển tình trạng đái dầm.
Một số trẻ, thậm chí là cả người lớn có bàng quang nhỏ hơn, do vậy, họ sẽ gặp khó khăn trong việc giữ lượng nước tiểu thông thường. Sự co thắt cơ cũng là một lý do khác khiến trẻ không kiểm soát được bàng quang.
Trẻ lớn sau khi trải qua giai đoạn biến động về hormone có thể sẽ gây ảnh hưởng đến lượng hormone ADH. Tình trạng này có thể sẽ dẫn đến việc tăng sản xuất nước tiểu trong khi ngủ và gây nên đái dầm.
Các vấn đề sức khỏe tiểm ẩn, ví dụ như bệnh tiểu đường, nhiễm khuẩn đường tiết niệu và táo bón có thể làm tăng số lần trẻ “đi tè” ban đêm. Bất thường ở hệ thần kinh cũng có thể gây ra các vấn đề về thần kinh, thiếu kiểm soát, bao gồm cả đái dầm.
Các vấn đề về tâm lý, ví dụ như lo âu và căng thẳng đôi khi có thể gây ra tình trạng đái dầm thứ phát ở trẻ lớn. Nếu không giải quyết sớm tình trạng này, thì đái dầm sẽ trở thành một thói quen khó sửa, thậm chí kéo dài đến cả giai đoạn trưởng thành. Và ngược lại, việc đái dầm quá thường xuyên cùng với việc bị cha mẹ quát mắng, cũng sẽ khiến trẻ lo lắng, căng thẳng hơn, dẫn đến một vòng xoắn làm nặng hơn tình trạng đái dầm.
Sử dụng caffeine cũng có thể làm tăng nhu cầu đi tè của trẻ. Nếu trẻ uống đồ uống có chứa caffeine trước khi đi ngủ, thì rất có thể bàng quang của trẻ sẽ đầy trước khi thức dậy và trẻ sẽ đái dầm vào ban đêm.
Nếu trẻ nhà bạn đã lớn mà vẫn còn đái dầm, trước hết hãy xác định đó là loại đái dầm nào và sau đó, có thể sẽ điều chỉnh các thói quen ở trên. Nếu sau khi điều chỉnh, trẻ vẫn còn đái dầm, bạn có thể sẽ cần phải đưa trẻ đến gặp bác sỹ nhi khoa.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Cách phòng tránh bệnh đái dầm cho trẻ
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?