Sau nhiều thập niên kể từ khi khoa học phát minh ra loại thuốc kháng sinh để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn, giờ đây, Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới.
Điều gì đã dẫn đến hiểm hoạ kháng thuốc của ngày hôm nay?
Dưới đây là một số những nguyên nhân và hậu quả của tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Liệu bạn chính là một trong những tác nhân thúc đẩy hiểm hoạ này ngày một nghiêm trọng hơn? Hãy nhận thức về mối hiểm nguy chung của toàn nhân loại, và tham gia vào các biện phápkhắc phục và giảm thiếu tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh.
1. Lạm dụng thuốc kháng sinh
Hầu hết mọi người khi mắc phải các căn bệnh thường thức ở giai đoạn khởi phát, thường tự mua thuốc kháng sinh tại các hiệu thuốc gần nhà. Đó có thể là các loại thuốc kháng sinh phổ rộng thuộc phân nhóm penicilin như amoxicillin hay ampicillin.
2. Vi khuẩn kháng thuốc nhờ gen (*)
Sự kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn nhờ vào các “gen kháng thuốc” có trong tế bào, nhờ đó có thể tồn tại và làm mất tác dụng của thuốc kháng sinh. “Gen kháng thuốc” của vi khuẩn được hình thành từ việc đột biến gen trong tế bào vi khuẩn.
Tuy nhiên, sự đột biến tự thân này của vi khuẩn gây bệnh, không hẳn là nguyên nhân chủ đạo và duy nhất của hiểm hoạ kháng thuốc kháng sinh. Một nguyên nhân khác là do các yếu tố lan truyền “gen kháng thuốc”, qua việc tiếp nhận “gen kháng thuốc” từ vi khuẩn trên động vật, hay “gen kháng thuốc” được lây truyền trên phạm vi toàn cầu.
– Đột biến: thuốc kháng sinh đã làm đột biến tính di truyền của vi khuẩn. DNA của vi khuẩn bị biến đổi theo hướng chống lại sự tác động của thuốc kháng sinh. Gen bị đột biến này được gọi là “gen kháng thuốc”. Nguyên nhân dẫn đến sự đột biến này là do việc dùng thuốc kháng sinh với liều lượng không theo quy chuẩn (không uống đủ liều lượng, hoặc uống quá liều). Vi khuẩn “sống sót” sau đợt điều trị trở nên “mạnh mẽ” hơn, từ đó “tiến hoá” và biến đổi DNA để chống lại tác dụng của thuốc kháng sinh.
– Phạm vi kháng thuốc xuyên quốc gia: một chủ thể mang trên mình vi khuẩn đã hình thành “gen kháng thuốc”. Người này khi đi đến một quốc gia khác, tiếp xúc với những loại vi khuẩn mới chưa có khả năng kháng thuốc, và lây truyền “gen kháng thuốc”, gây nên một dòng vi khuẩn kháng thuốc mới trên chính quốc gia đó, từ đó gây nênhiểm hoạ kháng thuốc kháng sinh thể mới trên toàn cầu.
Người bệnh dùng thuốc kháng sinh bừa bãi dẫn đến nguy cơ phát sinh những loại vi khuẩn đề kháng kháng sinh, và sản sinh ra chủng loại vi khuẩn thế hệ mới có mức độ đề kháng cả với loại kháng sinh cực mạnh, khi bị bệnh nặng sẽ không có loại kháng sinh tốt hơn để chữa trị. Bên cạnh tác dụng chữa bệnh, thuốc kháng sinh có thể gây ra các tác dụng phụ không mong muốn.
Việc dùng thuốc kháng sinh tùy tiện, ngoài việc giết chết những vi khuẩn gây bệnh, còn tiêu diệt cả những vi khuẩn có lợi cho cơ thể (ví dụ như vi trùng đường ruột tạo men tiêu hóa). Thậm chí, có thể gây ra những tai biến, nhẹ chỉ nổi mề đay, ban đỏ, ngứa, buồn nôn hoặc nôn; nặng có thể gây độc cho gan, thận hoặc sốc phản vệ gây nguy hiểm đến tính mạng. (*1)
4. Khắc phục tình trạng kháng thuốc
– Chỉ mua và sử dụng thuốc khi được bác sĩ khám bệnh và kê đơn.
– Kháng đúng bệnh, kháng vi khuẩn không kháng vi rút: thuốc kháng sinh chỉ có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn chứ không hiệu quả trên virút. Do đó không thể dùng kháng sinh để trị cảm cúm hoặc các bệnh cảm ho thông thường khác do vi rút gây nên. (*2)
– Không tự ý tăng giảm liều lượng hay thay đổi loại thuốc kháng sinh: khi được bác sĩ kê đơn thuốc có bao gồm kháng sinh, kể cả khi bệnh có dấu hiệu thuyên giảm cũng không được tự ý ngừng uống thuốc, hay uống thêm ngoài đơn thuốc vì cho rằng “phòng bệnh” chắc chắn hơn. Trường hợp khác, khi dùng thuốc kháng sinh sau vài ngày không khỏi, không được tự ý đổi loại thuốc mà không qua chỉ định của bác sĩ.
– Không uống tiếp thuốc chưa dùng hết trong lần bệnh trước đó, tránh dùng thuốc quá hạn và tự “điều trị” bệnh mới tương tự mà chưa qua chẩn khám của bác sĩ.
– Không dùng lại đơn thuốc: không sử dụng lại đơn thuốc cho lần sau mà không được bác sĩ tái khám hoặc kê đơn mới.
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.