Trong khi chán nản, trẻ em và thanh thiếu niên có khuynh hướng tụt hậu xa về mặt học thuật và mất đi các mối quan hệ bạn bè quan trọng. Như ở người lớn nguyên nhân trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên không được rõ; Nó được cho là kết quả từ các yếu tố di truyền và những căng thẳng về môi trường, áp lực học tập và những thiếu thốn, mất mát trong cuộc sống.
Các biểu hiện cơ bản
Dấu hiệu nhận biết của chứng rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên tương tự như ở người lớn nhưng có liên quan đến những mối quan tâm điển hình của trẻ, chẳng hạn như học tập và vui chơi. Trẻ em có thể không giải thích được cảm xúc bên trong hoặc tâm trạng. Trầm cảm nên được xem xét khi những đứa trẻ hoạt động kém đi so với trước đó, không hòa nhập cộng đồng, rút khỏi xã hội, hoặc có hành vi phạm pháp.
Ở một số trẻ có rối loạn trầm cảm, tâm trạng nổi trội là khó chịu như là cáu gắt bực bội, kíchthích, gây hấn hơn là nỗi buồn (một sự khác biệt quan trọng giữa tuổi thơ và người lớn). Sự khó chịu liên quan đến trầm cảm ở trẻ em có thể biểu hiện như là hành vi hiếu chiến và bất hợp tác...
Ở trẻ khuyết tật trí tuệ, chứng rối loạn tâm trạng trầm cảm hoặc rối loạn tâm trạng khác có thể biểu hiện như các triệu chứng của các bệnh cơ thể và rối loạn hành vi.
Lứa tuổi thanh thiếu niên dễ mắc các rối loạn trầm cảm
Các rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên
Các rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên bao gồm: rối loạn trầm cảm hỗn hợp; rối loạn trầm cảm chủ yếu; rối loạn khí sắc.
Rối loạn tâm trạng hỗn hợp: Rối loạn tâm trạng là rối loạn liên quan đến sự khó chịu liên tục và các giai đoạn thường xuyên của hành vi đó là rất khó kiểm soát, với sự khởi đầu ở tuổi 6-10. Nhiều trẻ em cũng có những rối loạn khác, đặc biệt là chống đối, phản đối, hiếu động thái quá, tăng động giảm chú ý, hoặc rối loạn lo âu. Các biểu hiện bao gồm các cơn kích thích thường xuyên nghiêm trọng (ví dụ như giận dữ hoặc gây tổn thương đối với những người xung quanh...) có tần suất cao hơn 3 lần/tuần; sự bùng nổ không phù hợp với hoàn cảnh; trạng thái cáu kỉnh, tức giận hiện diện hằng ngày.
Rối loạn trầm cảm chủ yếu là một trầm cảm kéo dài hơn 2 tuần. Rối loạn trầm cảm chủ yếu lần đầu tiên có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn là sau tuổi dậy thì với một số biểu hiện: cảm thấy buồn hoặc người khác quan sát thấy nỗi buồn (ví dụ như nước mắt) hoặc khó chịu; mất quan tâm hoặc thích thú trong hầu hết các hoạt động (thường được thể hiện như là chán nản); giảm cân (không tăng cân như dự kiến); giảm hoặc tăng cảm giác thèm ăn; mất ngủ hoặc chứng đau nửa đầu; sự kích động hoặc chậm phát triển tâm thần; mệt mỏi hoặc mất năng lượng; giảm khả năng suy nghĩ, tập trung và lựa chọn; những suy nghĩ liên tục về cái chết (không chỉ sợ chết) hoặc ý tưởng hay kế hoạch tự tử; cảm giác vô dụng (tức là cảm thấy bị từ chối và không được yêu thương)...
Nguy cơ tái phát cao ở những trẻ có giai đoạn trầm cảm nặng, có nhiều giai đoạn trầm cảm.
Rối loạn khí sắc: Chứng ù tai là trạng thái trầm cảm hoặc tức giận dai dẳng kéo dài trong thời gian dài trong đó có một số biểu hiện như: chán ăn hoặc ăn quá nhiều; mất ngủ hoặc chứng đau nửa đầu; giảm năng lượng hoặc mệt mỏi; kém tập trung; cảm giác tuyệt vọng; dễ bị lạm dụng... So với các rối loạn trầm cảm chủ yếu, các triệu chứng có thể ít hơn. Thời gian kéo dài trung bình 5 năm. Một giai đoạn trầm cảm lớn có thể xảy ra trước khi khởi phát hoặc trong năm đầu tiên.
Các biện pháp tâm lý và tái khám định kỳ
Đối với thanh thiếu niên việc điều trị sẽ mang lại hiệu quả cao hơn khi kết hợp liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm. Có thể cần phải nhập viện trong các giai đoạn cấp tính, đặc biệt khi xác định có ý tưởng và hành vi tự tử. Tác dụng ngoại ý do độc tính, có thể xảy ra khi dùng thuốc chống trầm cảm trong quá trình điều trị. Do đó, trẻ em và thanh thiếu niên uống các loại thuốc này phải được theo dõi chặt chẽ. Các biện pháp đồng thời dựa vào gia đình và nhà trường. Cần phải xem xét cẩn thận về bệnh sử và các xét nghiệm thích hợp để loại trừ các rối loạn khác (ví dụ như bệnh truyền nhiễm, bệnh tuyến giáp, lạm dụng ma túy) có thể gây ra các triệu chứng tương tự. Trẻ em và thanh thiếu niên nên được điều trị trong ít nhất 1 năm sau khi các triệu chứng đã giảm dần và hết hẳn. Hầu hết các chuyên gia khuyến cáo rằng trẻ em có trên 2 giai đoạn trầm cảm cần điều trị lâu dài. Cũng như ở người lớn, tái phát trầm cảm là phổ biến. Do vậy việc trị liệu tâm lý và tái khám định kỳ theo kế hoạch điều trị của bác sĩ rất quan trọng.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Thuốc chống trầm cảm liệu có phù hợp cho tất cả các đối tượng?
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.