Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Dùng thuốc điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ dưới 5 tuổi

Tùy theo tính nhạy cảm, tính kháng thuốc của vi khuẩn; độ nặng của bệnh để chọn và dùng thuốc điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp sao cho hợp lý...

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) ở trẻ dưới  5 tuổi chủ yếu do S.pneumoniae, H. influenzae… gây viêm phổi. Đây là bệnh nguy hiểm có tỷ lệ tử vong cao. Tùy theo tính nhạy cảm, tính kháng thuốc của vi khuẩn; độ nặng của bệnh và thậm chí là giá thuốc để chọn và dùng thuốc sao cho hợp lý...

Khi nào cần dùng thuốc?

Các thuốc hiện nay vẫn được chọn dùng trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ dưới 5 tuổi như: penicilin, ampicilin, amoxicylin, cotrimoxazol, chloramphenicol, gentamycin.

Trường hợp NKHHC độ I (nhẹ): Không viêm phổi với các biểu hiện trẻ chỉ ho nhưng không thở nhanh (dưới 1 tuổi chỉ dưới 50 lần/phút, 1 đến dưới 5 tuổi chỉ dưới 40 lần/phút) thì chưa cần dùng kháng sinh. Có thể dùng các loại thuốc ho đơn chất.

 

Trường hợp NKHHC độ II (vừa): Có viêm phổi nhưng không nặng, trẻ có ho, nhịp thở nhanh nhưng lồng ngực không co rút chủ yếu dùng kháng sinh uống như amoxicylin (đây là kháng sinh nhạy cảm tốt với S.pneuminiae, hấp thu tốt qua đường ruột). Nếu dùng kháng sinh này không đỡ (nghi ngờ kháng thuốc) có thể dùng amoxicylin kết hợp với acid clavulanic.

 

Cảnh giác với bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ mùa lạnh

Thuốc lựa chọn thứ hai có thể dùng là ampicilin (đây là thuốc có tính kháng khuẩn rộng hơn nhưng hấp thu qua đường ruột kém, do vậy phải uống liều cao và  nhiều lần trong ngày), cotrimoxazol (phối hợp giữa một sufamid là sulfamethoxazol và trimethoprim, chất giống kháng sinh). Phối hợp này cho phổ kháng khuẩn rộng, mạnh. Thuốc gây bí tiểu tiện, độc cho thận. Không dùng thuốc cho trẻ sơ sinh, trẻ đẻ non có vàng da. Hiện S.pneumoniae đã kháng cotrimoxazol với tỷ lệ cao tới 62% nên hiện ít dùng.

Ngoài ra, có thể dùng là thuốc tiêm (nếu cần thiết). Thuốc tiêm có thể dùng là penicilin. Thuốc còn có tác dụng tốt với S. pneumoniae. Nếu dùng dạng tiêm thì phải thử phản ứng dị ứng trước khi tiêm và phải được thực hiện tại cơ sở y tế.

Trường hợp NKHHC độ III (nặng): Trẻ ho, khó thở, co rút lồng ngực nhưng chưa tím tái, vẫn uống được thuốc. Nhất thiết phải chuyển trẻ đến ngay bệnh viện (vì ở nhà hay trạm y tế không có các điều kiện cấp cứu hỗ trợ). Dùng bezylpenicilin tiêm bắp mỗi ngày 4 lần cách mỗi 6 giờ một lần. Sau 3 - 5 ngày tiêm nếu đỡ thì tiếp tục cho dùng thuốc uống 3 - 5 ngày nữa cho đến lúc khỏi hẳn (không dùng penicilin V mà dùng amoxicyclin).

Trường hợp NKHHC độ IV (rất nặng): Trẻ có các triệu chứng như ở độ III nhưng co rút lồng ngực thường xuyên hơn, có thể đến mức có tím tái. Phải khẩn cấp đưa trẻ đến bệnh viện. Có 3 cách dùng thuốc: Hoặc tiêm bắp chloramphenicol mỗi ngày  4 lần, cách nhau mỗi 6 giờ một lần. Hoặc tiêm bắp hay tĩnh mạch benzylpenicilin mỗi ngày 4 lần, cách nhau mỗi 6 giờ một lần. Hoặc tiêm bắp hay tiêm tĩnh mạch benzylpenicllin kết hợp với gentamycin  mỗi ngày 2 lần. Liều lượng và đợt dùng tùy theo bệnh, riêng chloramphenicol thường dùng khoảng 3-5 ngày (không kéo dài hơn).

Cần chú ý, chloramphenicol gây độc với tủy xương, bị S.pneumoniae kháng mức trung bình (27%) vì vậy ít người sử dụng. Gentamycin độc với thính giác (ù tai, giảm thính lực, điếc) bị S.pneumoniae kháng với mức thấp (5-10%), thuốc này bị lạm dụng nhiều. Các bệnh viện thường chọn dùng peniclin khi cần mới phối hợp với gentamycin tiêm.

Cũng có trường hợp bị  S.pneumoniae kháng hay dị ứng, hay viêm phổi do các tác nhân khác mà dùng các kháng sinh trên không có hiệu quả thì dùng đến fluoroquinolon (FQ). Đến nay, trừ  acid nalidixic, không thuốc nào trong nhóm FQ được FDA (Mỹ) và các nước  khác chấp nhận chính thức cho trẻ em dưới 5 tuổi. Lý do: FQ làm  hỏng các sụn chịu lực của động vật còn non, nghi ngờ gây hại cho trẻ. Tuy nhiên, sau nhiều nghiên cứu, nghi ngờ này chưa tìm được chứng cớ trên người nên thầy thuốc vẫn cho dùng FQ khi cần, coi như tận dụng thêm một cơ hội chữa bệnh hữu ích. FQ đề xuất là cyclofloxacin (hoặc FQ mới hơn levofloxacin, moxifloxacin).

Lưu ý

Trẻ dưới 5 tuổi thường bị viêm đường hô hấp trên do nhiễm các virut ( 50 - 60% các trường hợp). Biểu hiện chỉ ho khan, sau đó có ít đờm, có tiếng thở khô, ran phế quản. Nếu trẻ khỏe mạnh, có sức đề kháng tốt cộng với sự tự thoái của virut thì chỉ sau 4-5 ngày sẽ tự khỏi, dùng kháng sinh là không cần thiết. Tuy nhiên cũng nên cho trẻ đi khám để yên tâm. Nếu phát hiện có bội nhiễm vi khuẩn mới dùng kháng sinh hoặc nghi ngờ nhiễm loại virut đặc biệt (qua khám lâm sàng) thì chuyển đến tuyến trên điều trị bằng kháng virut.

Trong chương trình chống NKHHC, các bà mẹ được hướng dẫn đếm nhịp thở, nhận biết trạng thái thở nhanh (cánh mũi phập phồng), trạng thái co rút lồng ngực… nên có thể tự nhận biết trẻ bị NKHHC ở độ nào, đưa trẻ đến đúng tuyến. Tuy nhiên, cũng có bà mẹ không nắm chắc, tự ý điều trị không đúng (khi bệnh nhẹ thì dùng thuốc quá mạnh, khi bệnh nặng thì chủ quan không chuyển tuyến). Điều này rất nguy hiểm.

Thực tế còn có nhiều trường hợp dùng thuốc chưa đúng: dùng các kháng sinh đã bị vi khuẩn kháng thuốc cao, hiệu lực kém (như penicilin V, cotrimoxazol) hoặc dùng kháng sinh khi bệnh mới ở độ I (đáng ra chưa cần) hoặc lạm dụng các kháng sinh mạnh (gentamycin, chloramphenicol, FQ.) Điều này làm cho hiệu quả điều trị thấp và làm gia tăng tình trạng kháng thuốc cho trẻ và cho cộng đồng.

DS. Bùi Văn Uy - Theo Sức Khoẻ và Đời Sống
Bình luận
Tin mới
  • 22/10/2025

    5 món ăn đêm không gây tăng cân

    Thèm ăn đêm nhưng lại sợ tăng cân là nỗi lo của không ít người. Dưới đây là 5 món ăn đêm vừa ngon miệng, vừa nhẹ bụng mà vẫn giữ dáng hiệu quả, bạn có thể tham khảo...

  • 22/10/2025

    Mối đe dọa vô hình: ánh nắng mặt trời mùa đông

    Sự xuất hiện của mùa đông thường mang lại cảm giác nhẹ nhõm, xua tan ánh nắng chói chang của mùa hè. Trong bối cảnh này, mặt trời mùa đông, mặc dù có vẻ yếu hơn và xuất hiện ít hơn, nhưng lại có khả năng gây tổn hại da dai dẳng và không kém mùa hè.trong việc gây ung thư da. Sự kết hợp giữa bức xạ tia cực tím A (UVA) của mặt trời, các yếu tố môi trường, và một loạt các quan niệm sai lầm phổ biến tạo ra một cơn bão hoàn hảo gây tổn thương da vô hình, tích tụ theo thời gian. Hiểu biết toàn diện về những mối nguy hiểm quanh năm này là rất quan trọng để phòng ngừa thư.

  • 21/10/2025

    4 cách sử dụng dầu dừa để kích thích mọc tóc

    Dầu dừa không phải là thuốc mọc tóc nhưng nếu sử dụng đúng cách và đều đặn sẽ giúp bạn có mái tóc khỏe mạnh, giảm gãy rụng và phát triển tốt hơn theo thời gian.

  • 21/10/2025

    7 lý do khiến bạn cảm thấy buồn nôn sau khi tập luyện

    Nếu bạn cảm thấy buồn nôn sau khi tập luyện, bạn không phải là người duy nhất. Nguyên nhân thường xuất phát từ cách cơ thể bạn phản ứng với một vài yếu tố chính khi tập luyện như: mất nước, ăn gì và uống gì, vận động mạnh, lượng đường trong máu thấp, tiếp xúc với nhiệt độ cao và gắng sức quá mức .

  • 20/10/2025

    Nên ăn gì giúp hệ tiêu hóa hoạt động tối ưu?

    Hệ tiêu hóa khỏe mạnh là nền tảng của một cơ thể khỏe mạnh. Việc lựa chọn đúng loại thực phẩm không chỉ giúp hệ tiêu hóa làm việc trơn tru mà còn hỗ trợ sức khỏe tổng thể.

  • 20/10/2025

    Viêm khớp mãn tính: Giải pháp giảm đau và nâng cao chất lượng cuộc sống

    Viêm khớp mãn tính là một bệnh lý phổ biến, gây ra đau đớn, hạn chế vận động và ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống. Bệnh không chỉ tác động đến khớp mà còn có thể làm tổn thương các cơ quan khác như tim, phổi và mắt.

  • 20/10/2025

    Thói quen buổi sáng giúp tăng cường vitamin D và serotonin cho cả ngày

    Tắm nắng vào buổi sáng sớm là một cách tuyệt vời để tăng cường vitamin D và serotonin, đồng thời hỗ trợ sức khỏe thể chất và tinh thần. Mặc dù việc phòng ngừa ung thư da bao gồm hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, nhưng việc không tắm nắng đầy đủ cũng gây ra những hậu quả tiêu cực.

  • 19/10/2025

    6 lợi ích của quả ổi với người bệnh đái tháo đường

    Quả ổi chứa nhiều vitamin và khoáng chất như vitamin C và kali có thể giúp tăng cường độ nhạy insulin và điều chỉnh lượng đường trong máu. Dưới đây là 6 lợi ích của quả ổi với người bệnh đái tháo đường.

Xem thêm