Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Dinh dưỡng dành cho người bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Suy dinh dưỡng thường gặp ở người bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT), chiếm đến 50-75%.

Tình trạng dinh dưỡng kém làm người bệnh cảm thấy mệt mỏi, khó thở nhiều hơn, dễ bị nhiễm trùng, nhất là viêm phổi; từ đó làm tăng nguy cơ nhập viện vì những đợt cấp BPTNMT.

Vài khái niệm cơ bản về dinh dưỡng

Thức ăn cung cấp năng lượng cho cơ thể để thực hiện mọi hoạt động, bao gồm cả hoạt động thở. Sự biến đổi thức ăn trong cơ thể trở thành năng lượng được gọi là quá trình chuyển hóa. Quá trình chuyển hóa thức ăn cần có oxy, tạo ra năng lượng và khí CO2. CO2 được thải ra ngoài qua cơ thể khi thở ra.

Phương trình chuyển hóa thức ăn: Thức ăn được chia làm 4 nhóm, trong đó chỉ có 3 nhóm chính là đạm, đường - bột và chất béo cung cấp năng lượng cho cơ thể.

- Chất đường bột: 1g (tinh chất) cung cấp 4 kcal.

- Đạm: 1g (tinh chất) cung cấp 4 kcal. - Chất béo, mỡ: 1g (tinh chất) cung cấp 9 kcal.

- Rau: chỉ cung cấp chất xơ, có rất ít năng lượng.

Tuy nhiên, thật ra thức ăn không phải là tinh chất; Trong mỗi loại thức ăn, đều chứa cả chất đạm, chất béo, đường bột và các vitamin theo những tỉ lệ khác nhau. Ví dụ: 100g thịt bò có 22,6g đạm, 8g mỡ, 2,8g sắt…, cung cấp 172 kcal năng lượng. Gạo chủ yếu chứa chất bột đường, nhưng vẫn có một tỉ lệ chất đạm, chất xơ và các vitamin.

Sự chuyển hóa thức ăn ảnh hưởng đến sức khỏe người bị BPTNMT

- Sự chuyển hóa chất bột đường: Tạo ra lượng CO2 cao hơn so với chất béo và đạm. Do đó, cơ thể cần thở nhanh và sâu hơn để thải CO2, dẫn đến hiện tượng: Mau mệt cơ hô hấp, làm tăng tình trạng suy hô hấp ở bệnh nhân BPTNMT đợt cấp, nhưng không ảnh hưởng trên bệnh nhân đã ổn định.

- Sự chuyển hóa chất béo, mỡ và đạm: Tạo ra CO2 ít hơn, vì vậy ít ảnh hưởng đến sự hô hấp. Nhưng chất mỡ béo dễ gây đầy bụng, khó tiêu, ăn uống kém, tăng nguy cơ xơ vữa mạch máu - là yếu tố nguy cơ của các bệnh lý tim mạch khác.

Vì những lý do trên, người bị BPTNMT nên ăn nhiều chất đạm, chất béo; Ăn ít chất đường bột.

Đặc điểm dinh dưỡng ở người BPTNMT
Người bị BPTNMT cần năng lượng cho hoạt động hô hấp cao hơn 10 lần so với người bình thường. Vì vậy, họ cần được cung cấp năng lượng cao hơn so với người bình thường và cần có chế độ dinh dưỡng tốt, giúp cơ thể mạnh khỏe, chống lại sự nhiễm trùng; Giúp giảm nguy cơ nhập viện.
Nếu người bệnh dư cân, tim, phổi sẽ phải hoạt động nhiều hơn, cần nhiều oxy để nuôi cơ thể hơn, nên càng gây khó thở nặng nề.
Ngược lại, nếu nhẹ cân, người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, yếu sức và có nhiều nguy cơ nhiễm trùng hơn, tăng nguy cơ nhập viện và tử vong.
Ngoài ra, người bị BPTNMT thường hít thở nhanh và sâu nên mất nhiều nước hơn qua đường hô hấp. Vì vậy, cần uống một lượng nước nhiều hơn người bình thường để bù lại lượng nước mất qua đường hô hấp và làm loãng đàm, giúp khạc đàm tốt hơn. Mỗi ngày, bệnh nhân BPTNMT nên uống 1.500-2.000ml nước.
Các yếu tố làm suy giảm tình trạng dinh dưỡng ở người bị BPTNMT
Người bị BPTNMT vốn khó thở thường xuyên, lồng ngực căng phồng, nhưng cơ hô hấp hoạt động kém. Để thực hiện động tác nuốt khi ăn, người bệnh phải ngưng thở nên oxy máu giảm làm khó thở tăng lên khi ăn.
1. Khi ăn no: Cơ hoành (là cơ hô hấp quan trọng, ngăn cách ngực với bụng) bị dẹt, làm giảm thể tích ổ bụng, thường gây mệt khi ăn no.
2. Do khó thở, người bệnh phải hạn chế vận động, đi lại, tập luyện thể dục nên không có cảm giác thèm ăn, đói bụng.
3. Hút thuốc lá là một nguyên nhân quan trọng làm người bệnh ăn không ngon miệng, chán ăn.
4. Do việc sử dụng nhiều thuốc hoặc có bệnh lý đi kèm, người bị BPTNMT thường có loét dạ dày do stress, gây đầy bụng ợ hơi…
5. Vì luôn mệt mỏi, khó thở nên người bệnh không muốn giao tiếp, thay đổi tính tình, có thể dẫn đến trầm cảm và chán ăn.
6. Người bị BPTNMT cần năng lượng cho hoạt động hô hấp cao hơn 10 lần so với người bình thường, nên dù ăn nhiều cũng rất khó tăng trọng lượng.
7. Thiếu hiểu biết về dinh dưỡng, điều kiện sống kém, thói quen ăn uống không đúng.
Tóm lại, người bị BPTNMT thường ăn uống kém, ít thấy ngon miệng, mau mệt khi ăn.
Các rối loạn dinh dưỡng khác đi kèm:
- Thiếu Vitamin A.
- Rối loạn điện giải: giảm Kali, Magné, Calci, Phosphat…
- Thiếu các yếu tố vi lượng khác như kẽm, Selenium…
Ảnh hưởng của tình trạng kém dinh dưỡng đối với người bị BPTNMT
- Cơ hô hấp không đủ năng lượng để hoạt động nên kém thông khí và gây ứ đọng CO2, làm tăng tình trạng khó thở.
- Các cơ khác không đủ năng lượng để hoạt động, dẫn đến mệt mỏi.
- Giảm khả năng đề kháng của cơ thể, do vậy bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng.
Một số lời khuyên về dinh dưỡng cho người bị BPTNMT
Lời khuyên chung
- Tránh ăn no bằng cách chia ra nhiều bữa ăn nhỏ trong ngày (4-6 bữa ăn).
- Chọn lựa thức ăn chứa nhiều năng lượng so với thể tích, tránh các thức ăn không có năng lượng hoặc cung cấp năng lượng quá ít. Ngay cả với những bữa ăn nhẹ cũng nên chọn những thức ăn có nhiều năng lượng như trứng, sữa, yaourt…
- Cố gắng ăn chất đạm và chất béo nhiều hơn đường (hạn chế tạo CO2), ăn những món cung cấp nhiều năng lượng trước.
- Các loại rau, củ có thể xắt nhuyễn, nấu mềm và nhớ uống luôn nước rau để có Kali (potassium).
- Bữa ăn tối: Dùng thức ăn nhẹ, dễ tiêu hóa. - Trang trí bàn ăn, nhà cửa, có thể mở nhạc trong bữa ăn. - Hạn chế cà phê, trà. Tuyệt đối không uống rượu.
- Tránh dùng các đồ ăn thức uống có gas như nước ngọt, bia...
- Cẩn thận với một số thức ăn dễ gây đầy bụng, sinh hơi như: Những món chiên xào nhiều dầu mỡ, táo, bơ, dưa (hấu, lê), khoai, các loại đậu, ngũ cốc, các loại cải bắp, dưa chuột, tỏi, hành, tiêu, ớt…
- Nên theo dõi cân nặng 1-2 lần/tuần.
Trước khi ăn
- Lên kế hoạch những món ăn theo sở thích, chọn thức ăn nấu chín, dễ tiêu. Ngoài ra, thức ăn cần được chế biến và trình bày hấp dẫn để kích thích sự thèm ăn.
- Bố trí bữa ăn lúc bệnh nhân thấy khỏe, tạo không khí thoải mái và vui vẻ trong bữa ăn để giúp ăn ngon miệng.
- Làm sạch, thông thoáng đường thở ít nhất 1 giờ trước khi ăn bằng cách vỗ lưng, ho, khạc đàm hoặc dùng thuốc giãn phế quản.
- Hạn chế nhai chewing gum hoặc ngậm kẹo.
- Đi bộ hoặc tập thể dục nhẹ có thể kích thích cảm giác đói, thèm ăn.
Trong khi ăn
- Thở oxy (Oxy liệu pháp) trong và sau khi ăn.
- Sử dụng ống hút khi uống nước để tránh nuốt hơi vào bụng.
- Ngồi thẳng người trong tư thế thoải mái để giúp phổi và dạ dày làm việc dễ dàng.
- Hạn chế ăn nhiều muối để tránh gây giữ nước, tăng huyết áp, tăng gánh nặng cho tim phổi.
- Ăn chậm, ăn từng miếng nhỏ, nhai kỹ, tránh ăn vội.
- Uống nước sau khi ăn, tránh uống nước trong hoặc trước khi ăn.
- Nghỉ ngơi, hạn chế vận động ngay sau khi ăn.
Theo SKĐS
Bình luận
Tin mới
Xem thêm