Tuy nhiên, không phải nhiễm HPV là gây ung thư mà đa số trường hợp cơ thể có khả năng tự đẩy lui được bệnh đến hết hẳn và không để lại di chứng. Chỉ có các trường hợp viêm nhiễm kéo dài, đặc biệt do nhóm nguy cơ cao, sẽ gây ra các tổn thương về phát triển mô học của cổ tử cung, có thể tiến triển từ dị sản đến ung thư cổ tử cung.
HPV týp 16 - 18 là thể gây bệnh sùi mào gà hay còn gọi mồng gà, có tên khoa là Genital Warts hay Condylomata Acuminata, là bệnh được xếp vào nhóm các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Bệnh sùi mào gà được lây truyền do tiếp xúc trực tiếp qua đường sinh hoạt tình dục và lây truyền từ mẹ sang con trong lúc sinh, khi xâm nhập vào cơ thể qua tiếp xúc trực tiếp với da hay niêm mạc, virút khu trú ở tế bào cận đáy, có thời gian ủ bệnh từ 1 - 8 tháng, sau đó kích thích tăng sinh tế bào đáy dẫn đến sự hình thành những tổn thương ở biểu mô có hình dạng sùi lên như hoa súp lơ hay cái mào gà, gặp nhiều nhất ở người có bộ phận sinh dục thường ẩm ướt, viêm âm hộ-âm đạo, suy giảm miễn dịch hoặc đi kèm bệnh hoa liễu khác.
Về triệu chứng: mào gà thường không biểu hiện gì đặc biệt, không đau, không ngứa, biểu hiện với sang thương là sẩn sùi kích thước 1mm đến vài chục milimét, thậm chí đến hàng trăm milimét, bề mặt sần sùi, màu hồng hoặc đỏ, mềm, ẩm ướt, có thể có cuống, sờ vào không đau, nhưng dễ chảy máu. Vị trí thường gặp ở âm hộ - âm đạo, cổ tử cung, quanh lỗ tiểu, bẹn, tầng sinh môn, hậu môn; trẻ em có thể bị lây từ mẹ trong lúc sinh, có thể gặp ở niêm mạc ngoài cơ quan sinh dục như mắt - mũi - miệng.
Về cơ chế gây ung thư của HPV: các nhà khoa học thấy rằng, sau khi nhập vào bộ gen tế bào ký chủ thì vùng gen E6, E7 điều khiển tổng hợp protein E6, E7; các protein này gắn kết và vô hiệu hóa chức năng của protein điều hòa tăng trưởng tế bào pRb dẫn đến sự phân chia tế bào liên tục một cách bất thường và hậu quả là phát sinh ung thư.
Về điều trị: giải pháp tốt cho điều trị hiện nay là đốt các sang thương bằng laser CO2. Việc loại các sang thương bằng điều trị bằng laser CO2 hay đốt điện chỉ loại bỏ được các nốt sùi chứ không tiêu diệt được virút, sau đó các sang thương cũng dễ phát triển trở lại, vì vậy vẫn phải tiếp tục theo dõi và điều trị cho đến khi hết hẳn. Cần nhớ rằng: do thời gian ủ bệnh của virút kéo dài đến 8 tháng, nên nhất thiết phải theo dõi đến hết thời gian ủ bệnh mới xác định bệnh khỏi hẳn, tức là sau 8 tháng.
Ngoài phương pháp trên, đối với các tổn thương sùi mào gà ở âm hộ, âm đạo có thể chấm dung dịch trichloactic axít, chấm đến khi nốt sùi chuyển màu trắng là được, tuyệt đối không chấm dung dịch trichloactic axít lên những nốt sùi ở cổ tử cung hay trong lỗ hậu môn, vì không kiểm soát được mức độ tổn thương loét niêm mạc do thuốc mà chọn giải pháp đốt laser CO2 hay đốt điện là tốt nhất vì kiểm soát được sang thương trong điều trị.
Có thể dùng dung dịch Podophyllotoxine 20 - 25% bôi lên những nốt sùi nhỏ lẻ ở âm hộ, bôi thuốc để từ 1 - 3 giờ phải rửa sạch để tránh loét xuống phần da lành, tuần bôi 1 lần. Thuốc này cũng không được bôi vào các sang thương ở trong âm đạo, cổ tử cung và trong hậu môn. Đối với phụ nữ mang thai, trường hợp tổn thương nhiều ở âm hộ - âm đạo cũng rất nguy hiểm vì những đám sùi sẽ chảy máu khó cầm khi đẻ đường dưới hoặc khi thai nhi lọt qua âm đạo sẽ bị lây nhiễm.
Về phòng bệnh:
Tốt nhất là tiêm phòng vắcxin ngay ở tuổi thanh thiếu niên, hoặc người lớn chưa có quan hệ tình dục, có nghĩa là cần tiêm trước khi có quan hệ tình dục đầu tiên. Vắcxin được chỉ định cho bé gái và phụ nữ từ 9 - 26 tuổi, dùng với 3 liều trong 6 tháng, liều thứ 2 cách liều thứ nhất 2 tháng và liều thứ 3 cách liều thứ nhất là 6 tháng, sau chích tạo miễn dịch bảo vệ được 4 - 5 năm.
Ngoài ra, cần đảm bảo vệ sinh cá nhân như: rửa sạch bộ phận sinh dục bằng nước và xà phòng thích hợp trước và sau khi quan hệ tình dục, việc dùng bao cao su có thể dự phòng được bệnh sùi mào gà và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. Tuy nhiên, virút gây bệnh này cũng có thể xâm nhập vào vùng da và niêm mạc khác ngoài bộ phận sinh dục.
Phụ nữ mang thai bị sùi mào gà cần tích cực điều trị trước khi sinh con, vì virút này có thể từ đường sinh dục của mẹ xâm nhập vào đường hô hấp của trẻ sơ sinh, gây tử vong, bệnh sùi mào gà có thể gây cho thai phụ có thể liên quan đến nguy cơ ung thư cổ tử cung, âm đạo, âm hộ, hậu môn; chảy máu khó cầm nguy hiểm đến tính mạng; nguy cơ phải mổ lấy thai; nguy cơ lây bệnh từ mẹ sang con trong khi sinh đẻ.
Vì vậy, việc điều trị khỏi bệnh cho thai phụ trước khi sinh con là rất quan trọng, giúp thai phụ tránh được những mối nguy hiểm này. Bên cạnh việc chích ngừa thì khám phát hiện bệnh định kỳ hàng năm là cần thiết để được điều trị sớm nếu bị bệnh.
Sữa non hay colostrum là loại sữa được lấy từ sữa mẹ và động vật có vú trong 72 giờ đầu sau sinh. Sữa non colostrum có màu vàng, ở dạng kết dính và là nguồn dinh dưỡng, kháng thể dồi dào.
Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu thêm về dị ứng gia vị và các triệu chứng của chúng. Bài viết cũng giải thích cách để chẩn đoán và những gì bạn có thể làm để điều trị và ngăn ngừa các phản ứng của dị ứng gia vị.
Khi bạn bị táo bón, cơ thể bạn không loại bỏ kịp thời các chất thải. Và điều đó làm tăng nguy cơ gặp phải các biến chứng. Các biến chứng thường xảy ra ở ruột già, hậu môn.
Những người bị hôi chân phải vật lộn hàng ngày với nỗi xấu hổ vì đôi chân có mùi, đặc biệt là khi cởi giày ở nơi công cộng hay cửa hàng giày dép. Vậy làm cách nào để khắc phục tình trạng hôi chân hiệu quả?
Dậy thì sớm là khi cơ thể trẻ em bắt đầu thay đổi thành cơ thể người lớn quá sớm. Dậy thì sớm được coi la ở thời điểm trước 8 tuổi ở bé gái và trước 9 tuổi ở bé trai. Nguyên nhân gây dậy thì sớm thường không rõ ràng. Một số nguyên nhân xảy ra bao gồm nhiễm trùng, các vấn đề về hormone, khối u, vấn đề liên quan đến não hoặc chấn thương dẫn đến dậy thì sớm.
Nghiên cứu theo dõi quá trình giảm cân kéo dài 25 tháng cho thấy, chế độ ăn kiêng giàu protein và chất xơ giúp giảm cân hiệu quả và an toàn.
Chế độ ăn uống đủ chất xơ giúp giữ hệ tiêu hóa khỏe mạnh, đồng thời hỗ trợ ổn định đường huyết và giảm nguy cơ ung thư. Một vài dấu hiệu sau cảnh báo bạn đang thiếu chất xơ.
Một nghiên cứu mới đây cho thấy, căng thẳng quá cao trong công việc có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh rung nhĩ, một vấn đề về nhịp tim nguy hiểm.