Đau khớp kiểu di chuyển là gì?
Nói một cách đơn giản, đau khớp di chuyển là tình trạng các triệu chứng viêm khớp (ví dụ: đau, sưng, nóng, đỏ và cứng ở/hoặc quanh khớp) di chuyển từ khớp này đến khớp khác.
Đặc biệt, khi viêm khớp di chuyển, một hoặc nhiều khớp bị ảnh hưởng trong một khoảng thời gian, sau đó là giai đoạn thuyên giảm tại các khớp đó, rồi các triệu chứng lại xuất hiện ở các khớp khác (thường là các khớp không đối xứng). Sự khởi phát của viêm khớp di chuyển là rất nhanh.
Đau khớp di chuyển khác với đau khớp không liên tục. Trong kiểu không liên tục, các triệu chứng xuất hiện trong một khoảng thời gian giới hạn và sau đó hết hoàn toàn. Sau một thời gian, viêm xuất hiện ở những khớp khác mà trước đó có thể chưa từng bị viêm bao giờ.
Đau khớp di chuyển cũng khác với đau khớp tiến triển. Đau khớp tiến triển là những khớp cũ vẫn viêm trong khi các khớp mới bắt đầu viêm tiếp.

Đau khớp di chuyển thường liên quan đến các tình trạng sức khoẻ tiềm ẩn. Dưới đây là một số bệnh thường gặp có biểu hiện đau khớp di chuyển.
Viêm khớp nhiễm trùng
Viêm khớp nhiễm trùng là do mầm bệnh (vi khuẩn, vi rút hoặc nấm) tấn công vào khớp. Mầm bệnh có thể xâm nhập qua da, mũi, cổ họng, tai, hoặc vết thương hở vào thẳng đến khớp. Viêm khớp nhiễm trùng cũng có thể phát triển sau khi một nhiễm trùng hiện có trong cơ thể đi đến một khớp.
Viêm khớp lậu cầu
Bệnh lậu ngoài tấn công bộ phận sinh dục thì còn tấn công vào khớp. Viêm khớp do lậu cầu là một biến chứng của những người mắc lậu không được điều trị. Bệnh do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây ra.
Thấp khớp
Thấp khớp là một bệnh viêm có thể ảnh hưởng đến tim, khớp, não và da. Bệnh được coi là một biến chứng của nhiễm trùng tụ cầu tan huyết Streptococcus nhóm A, gây bệnh ở đường hô hấp trên, chẳng hạn như viêm họng do Strep, hoặc bệnh sốt tinh hồng nhiệt.
Viêm khớp phản ứng
Viêm khớp phản ứng, một bệnh thoái hoá cột sống cấp tính, là một loại viêm khớp xảy ra như một phản ứng đối với một bệnh nhiễm trùng ở nơi khác trong cơ thể. Ngoài sự liên quan của khớp, viêm khớp phản ứng có liên quan đến viêm mắt và viêm đường tiết niệu.
Lupus ban đỏ hệ thống
Bệnh lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh mãn tính, viêm, tự miễn dịch. Lupus có thể ảnh hưởng đến khớp, da, thận, phổi, tim, hệ thống thần kinh và các cơ quan khác. Lupus có thể gây ra tình trạng giả các loại viêm khớp và thấp khớp khác, khiến bệnh khó chẩn đoán.
Bệnh viêm ruột (IBD)
Viêm đại tràng kết loét và bệnh Crohn, các bệnh mãn tính của đường ruột, thường được xếp vào nhóm bệnh viêm ruột vì chúng có các triệu chứng tương tự, mặc dù chúng khác nhau về ảnh hưởng của chúng đến đường tiêu hóa. Viêm khớp là biến chứng ngoài ruột phổ biến nhất liên quan đến IBD.
Sarcoidosis
Sarcoidosis là một bệnh hệ thống biểu hiện trên toàn cơ thể, nhưng thường ảnh hưởng đến phổi, hạch bạch huyết hoặc da. Với sarcoidosis, viêm gây ra khối u, hoặc u hạt, hình thành trong các mô của cơ thể trong đó có khớp
Bệnh Lyme
Bệnh Lyme là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi. Borrelia burgdorferi cư trú trong vi khuẩn và có thể lây lan sang người khi bị ve cắn. Với giai đoạn lan truyền lan rộng của bệnh Lyme, nhiễm trùng lây lan đến phần còn lại của cơ thể trong vài tuần sau khi bị cắn và có thể gây ra nhiều vấn đề, bao gồm đau khớp.
Nhiễm trùng giai đoạn cuối, có thể là vài tháng hoặc nhiều năm sau khi khởi phát, có thể dẫn đến viêm khớp mãn tính.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Nội tâm mạc là một lớp màng mỏng lót mặt trong của tim. Viêm nội tâm mạc vi khuẩn, xảy ra khi vi trùng xâm nhập vào mô tim của bạn thông qua máu. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể làm hỏng van tim. Viêm nội tâm mạc mạn tính có thể có liên quan đến nhiều triệu chứng, bao gồm đau khớp.
Tham khảo thông tin tại bài viết: Những phương pháp tự nhiên giúp giảm đau khớp
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.