Trường hợp dọa sinh non
Khi sản phụ mang thai, các yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến tình trạng dọa sinh non có liên quan đến người mẹ, thai nhi và phần phụ. Yếu tố xuất phát từ người mẹ thường thấy trong trường hợp hở eo tử cung, cổ tử cung ngắn, có tiền sử khoét chóp cổ tử cung; bị viêm nhiễm như viêm nhiễm âm đạo, viêm đường tiết niệu không triệu chứng, viêm nha chu...; có những bất thường ở tử cung như u xơ tử cung, dị dạng tử cung bẩm sinh...; có tiền sử sinh non qua di truyền như bản thân người mẹ trước đây đã bị tình trạng sinh non...
Yếu tố xuất phát từ thai nhi và phần phụ thường gặp trong trường hợp đa thai, có thai sau thụ tinh trong ống nghiệm, nhiễm khuẩn ối, ối vỡ non, thai nhi chậm tăng trưởng, thai nhi có khuyết tật; bị nhau tiền đạo, nhau bong non, đa ối...
Chẩn đoán xác định trường hợp dọa sinh non khi sản phụ mang thai có tuổi thai nhi từ hết 22 tuần đến hết 37 tuần, có cơn co tử cung gây đau với ít nhất là 2 cơn trong 1 giờ, có sự biến đổi cổ tử cung, có thể có ra máu hay chất nhầy màu hồng ở âm đạo...

Dọa sinh non và sinh non là trường hợp cần được phát hiện, chẩn đoán, xử trí can thiệp kịp thời
Dự phòng
Sản phụ khám thai định kỳ theo lịch hẹn, phát hiện và xử lý sớm các yếu tố có nguy cơ từ người mẹ như: điều trị sớm tình trạng viêm nhiễm hoặc có từ trước khi mang thai nếu có thể, tìm nguyên nhân và điều trị nếu sản phụ có tiền sử sinh non; điều trị những bất thường trong tử cung như uống thuốc mỗi ngày đến khi thai nhi được 36 tuần tuổi hoặc đặt âm đạo thuốc progesterone dạng mịn mỗi ngày khi sản phụ không có ra máu, ra nước âm đạo và không có viêm nhiễm âm đạo; nếu cổ tử cung ngắn hơn 20mm nên khâu cổ tử cung.
Cần theo dõi các yếu tố di truyền như bản thân người mẹ trước đây đã từng sinh non..., cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sinh hoạt cũng như nghỉ ngơi, theo dõi và xử trí tốt trường hợp chảy máu âm đạo trong thai kỳ. Đồng thời cũng cần phát hiện, theo dõi, xử trí sớm các yếu tố nguy cơ từ thai nhi nếu có thể được.
Sinh non
Chẩn đoán trường hợp sinh non khi tuổi thai nhi đủ 22 tuần tuổi đến trước khi đủ 37 tuần tuổi; có cơn co tử cung đều đặn, gây đau, sờ thấy được, kéo dài hơn 30 giây và xảy ra tối thiểu 4 lần cơn co tử cung trong mỗi 30 phút; có sự thay đổi về vị trí, mật độ, chiều dài và có hoặc có hiện tượng mở cổ tử cung.
Việc xử trí can thiệp cần bảo đảm cho thai nhi ít bị chấn thương nhất trong lúc sinh đẻ và thực hiện quy trình kỹ thuật tùy theo tuyến y tế. Ở tuyến xã, phường, thị trấn; cần tư vấn, giải thích và chuyển sản phụ lên tuyến trên càng sớm càng tốt; chỉ thực hiện việc đỡ đẻ trong trường hợp không thể chuyển lên tuyến trên được; nếu sản phụ sinh non tại tuyến này, cần thực hiện việc chăm sóc trẻ sơ sinh theo hướng dẫn phác đồ chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng, nhẹ cân quy định.
Đối với người mẹ phải theo dõi tình trạng chảy máu, kiểm soát tử cung nếu phát hiện nhau bị thiếu và tư vấn, giải thích, chuyển lên tuyến trên nếu cần. Ở tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố trở lên; cần thông báo cho bác sĩ nhi khoa đến phối hợp để cùng hỗ trợ, đồng thời chuẩn bị các phương tiện hồi sức, chăm sóc trẻ sơ sinh thiếu tháng theo quy định.
Khi sản phụ mang thai, tình trạng dọa sinh non và sinh non là các trường hợp cần được phát hiện, chẩn đoán sớm và xử trí can thiệp kịp thời tùy theo tuyến y tế. Các cơ sở chăm sóc sức khỏe sinh sản kể cả sản phụ và người nhà sản phụ nên quan tâm, có sự hiểu biết về vấn đề này để cùng hỗ trợ, hợp tác trong các tình huống gặp phải. Cần lưu ý đến các yếu tố nguy cơ gây ảnh hưởng để phát hiện sớm nguyên nhân, đồng thời có tiên lượng để chẩn đoán xác định sớm nhằm có biện pháp xử trí kịp thời, hiệu quả, bảo đảm an toàn cho cả mẹ lẫn con trong trường hợp dọa sinh non và sinh non.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Ung thư và mang thai - Phần 1, Ung thư và mang thai - Phần 2
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.