Với hơn 10.000 phụ nữ Việt Nam được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm, đây chính là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Ung thư vú xảy ra khi các tế bào trong vú bắt đầu phát triển bất thường, phân chia không kiểm soát và tích tụ thành một khối mà thường được phát hiện là một khối u cứng (hoặc một biểu hiện khác của các triệu chứng). Nhưng nguyên nhân gây ung thư vú là gì? Vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn chính xác nguyên nhân ban đầu gây ra những đột biến tế bào gây ung thư vú là gì, nhưng có một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú của bạn.
Các yếu tố nguy cơ có thể được chia thành hai loại: lối sống và di truyền. Khi nói về bệnh ung thư vú, bệnh có thể được chia thành những yếu tố nguy cơ bạn có thể và không thể thay đổi được. Có những yếu tố nguy cơ mà bạn sinh ra đã có và có những yếu tố khác mà bạn thực sự có thể thay đổi được.
Ngoài ra, chỉ vì bạn có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ ung thư vú, điều đó không nhất thiết có nghĩa là bạn sẽ phát triển bệnh này. Và mặt khác, ngay cả khi bạn không có các yếu tố nguy cơ liệt kê sau đây, điều đó không có nghĩa là bạn hoàn toàn an toàn.
Uống rượu
Ngay cả một vài ly rượu mỗi tuần cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Những phụ nữ uống hai hoặc ba ly mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn 20% so với những phụ nữ không uống rượu. Rượu có thể làm tăng nồng độ estrogen trong cơ thể, đó có thể là lý do tại sao nó làm tăng nguy cơ ung thư của bạn.
Thừa cân hoặc béo phì
Béo phì là một yếu tố nguy cơ đặc biệt ở phụ nữ sau mãn kinh. Trước khi mãn kinh, buồng trứng của bạn tạo ra hầu hết estrogen. Sau thời kỳ mãn kinh, buồng trứng ngừng sản xuất estrogen, vì vậy hầu hết hormone này đến từ mô mỡ, việc dư thừa chất béo có thể làm tăng nồng độ estrogen và tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Ngoài ra, những phụ nữ thừa cân có xu hướng có nồng độ insulin trong máu cao hơn, có liên quan đến ung thư vú. Phụ nữ càng gần với trọng lượng cơ thể lý tưởng thì càng ít có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Đọc thêm bài viết: TS. BS Trương Hồng Sơn gợi ý bữa ăn lành mạnh giúp phòng ung thư
Không tập thể dục
Hoạt động thể chất thường xuyên làm giảm nguy cơ ung thư vú, đặc biệt là ở phụ nữ đã qua thời kỳ mãn kinh. Mặc dù chưa rõ bạn cần bao nhiêu hoạt động, nhưng một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng thậm chí chỉ vài giờ tập thể dục mỗi tuần cũng có thể hữu ích (mặc dù nhiều hơn có thể tốt hơn). Một nghiên cứu được công bố trên JAMA đã kiểm tra sự hiện diện của bệnh ung thư vú ở phụ nữ năng động và phụ nữ ít năng động hơn và phát hiện ra rằng những phụ nữ tham gia hoạt động thể chất thường xuyên ở tuổi 35 đã giảm 14% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Có con muộn
Nguy cơ mắc bệnh ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ chưa từng có con hoặc có con sau 30 tuổi. Điều đó nói lên rằng, ảnh hưởng của việc mang thai dường như phụ thuộc vào loại ung thư vú mà bạn mắc phải. Ví dụ, mắc một loại ung thư vú gọi là bộ ba âm tính dường như làm tăng nguy cơ mắc bệnh. (Ung thư vú bộ ba âm tính là xét nghiệm âm tính đối với ba thụ thể: estrogen, progesterone và thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 (HER2)).
Không cho con bú
Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc cho con bú có thể làm giảm nhẹ nguy cơ ung thư vú, đặc biệt nếu việc này được thực hiện trong một năm rưỡi đến hai năm. Điều này có thể là do việc cho con bú làm giảm tổng số chu kỳ kinh nguyệt trong đời của người phụ nữ và việc tạo sữa hạn chế khả năng hoạt động bất thường của tế bào vú. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí của Viện Ung thư Quốc gia đã kiểm tra mô vú của những phụ nữ bị ung thư vú và phát hiện ra rằng những phụ nữ cho con bú có nguy cơ tái phát thấp hơn 30% và nguy cơ tử vong vì ung thư vú thấp hơn 28%.
Uống thuốc tránh thai nội tiết tố
Các hormone trong một số phương pháp ngừa thai bao gồm thuốc uống tránh thai, thuốc tiêm ngừa thai và vòng tránh thai có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học New England đã nghiên cứu 1,8 triệu phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 49 và nhận thấy nguy cơ phát triển ung thư vú tăng 20% ở những phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết tố.
Sử dụng liệu pháp hormone sau khi mãn kinh
Liệu pháp hormone với estrogen và progesterone có thể giúp làm giảm các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh và giúp ngăn ngừa loãng xương, nhưng nó cũng có thể làm tăng khoảng 75% nguy cơ phát triển và tử vong do ung thư vú. Nó cũng có thể làm tăng khả năng phát hiện ung thư ở giai đoạn nặng hơn và tăng nguy cơ mắc bệnh tim, hình thành cục máu đông và đột quỵ. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, những rủi ro có thể lớn hơn lợi ích của liệu pháp hormone, vì vậy hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi sử dụng.
Đọc thêm bài viết: 9 loại trái cây có lợi nên ăn trong và sau khi điều trị ung thư
Là phụ nữ
Vì ung thư vú là loại ung thư do nội tiết tố điều khiển, nó thường cần estrogen để phát triển, do đó việc bạn là phụ nữ có lẽ là yếu tố nguy cơlớn nhất để phát triển ung thư vú.
Ngày càng già đi
Nguy cơ ung thư vú tăng theo độ tuổi. Hầu hết các bệnh ung thư vú được tìm thấy ở phụ nữ từ 55 tuổi trở lên.
Có gen di truyền nhất định
Khoảng 5 đến 10% các trường hợp ung thư vú được cho là do di truyền, nghĩa là chúng là kết quả của các khiếm khuyết gen (gọi là đột biến) được truyền từ cha hoặc mẹ. Cụ thể, đột biến di truyền của gen BRCA1 hoặc BRCA2 là nguyên nhân phổ biến nhất của ung thư vú di truyền.
Có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú
Hầu hết phụ nữ (khoảng 8/10 người) bị ung thư vú không có tiền sử gia đình mắc bệnh này. Tuy nhiên, có người thân cấp một (mẹ, chị gái hoặc con gái) bị ung thư vú gần như làm tăng gấp đôi nguy cơ của bạn và có hai người thân cấp một làm tăng gấp ba lần nguy cơ của bạn. Nhìn chung, dưới 15% phụ nữ bị ung thư vú có thành viên gia đình mắc bệnh.
Bị ung thư vú trong quá khứ
Nếu bạn bị ung thư ở một bên vú, bạn sẽ có nguy cơ cao phát triển bệnh ung thư mới ở vú còn lại hoặc ở một phần khác của cùng một bên vú. Mặc dù nguy cơ thấp, nhưng nó có xu hướng cao hơn đối với phụ nữ trẻ từng bị ung thư vú.
Là người gốc da đen
Phụ nữ da trắng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút so với phụ nữ da đen, tuy nhiên, ung thư vú phổ biến hơn ở phụ nữ da đen dưới 45 tuổi và phụ nữ da đen có nhiều khả năng tử vong vì ung thư vú ở mọi lứa tuổi. Phụ nữ gốc Á, gốc Tây Ban Nha và người Mỹ bản địa đều có nguy cơ phát triển và tử vong do ung thư vú thấp hơn.
Mô vú dày đặc
Vú được tạo thành từ mô mỡ, mô xơ và mô tuyến. Bạn có thể được thông báo rằng mình có “bộ ngực dày đặc” nếu chụp X quang tuyến vú cho thấy bạn có nhiều mô tuyến và mô xơ hơn và ít mô mỡ hơn. Phụ nữ có bộ ngực dày đặc có nguy cơ mắc ung thư vú cao gấp 1,5 đến 2 lần so với phụ nữ có mật độ vú trung bình.
Có kinh sớm
Nếu bạn có kinh nguyệt trước 12 tuổi, điều đó có nghĩa là bạn đã trải qua nhiều chu kỳ kinh nguyệt hơn trong đời và tiếp xúc nhiều hơn với estrogen và progesterone, làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Trải qua thời kỳ mãn kinh sau tuổi 55
Ngược lại, mãn kinh sau 55 tuổi có nghĩa là bạn có nhiều chu kỳ kinh nguyệt hơn, điều này lại kéo dài thời gian tiếp xúc với estrogen và progesterone, làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Có bức xạ vào ngực của bạn khi còn bé
Việc điều trị ung thư ở trẻ em bằng bức xạ vào ngực làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển ung thư vú sau này. Nguy cơ cao nhất nếu bạn bị nhiễm xạ khi còn là thiếu niên hoặc thanh niên khi ngực của bạn vẫn đang phát triển.
Tiếp xúc với DES
Những phụ nữ dùng diethylstilbestrol (DES), một loại thuốc giống như estrogen được sử dụng từ những năm 1940 đến đầu những năm 1970 để giảm khả năng sảy thai, có nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ. Những phụ nữ có mẹ dùng DES khi mang thai cũng có thể có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút.
Phòng khám chuyên khoa Dinh dưỡng VIAM (VIAM Clinic) trực thuộc Viện Y học ứng dụng Việt Nam tư vấn, cung cấp chế độ dinh dưỡng cá thể dành cho những người đang điều trị các bệnh mạn tính, trong đó có ung thư. Hãy liên hệ với VIAM Clinic nếu bạn muốn có chế độ dinh dưỡng hỗ trợ điều trị ung thư TẠI ĐÂY hoặc Hotline: 0935.18.3939 hoặc 024.3633.5678
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh
Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.
Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.
Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.
Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.