Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Các tác dụng phụ của kháng sinh

Giống như nhiều loại thuốc khác, các thuốc kháng sinh cũng có khả năng ít nhiều gây ra những tác dụng phụ cho người bệnh. Có thể chia các tác dụng phụ này thành 3 loại chính: tác dụng phụ về mặt vi trùng học, phản ứng dị ứng, và tai biến do độc tính của kháng sinh.

Tác dụng phụ về mặt vi trùng học

Các rối loạn hệ vi khuẩn bình thường của người bệnh thường gặp sau khi dùng những kháng sinh phổ rộng, nhất là khi dùng qua đường uống(chloramphenicol). Các kháng sinh này tiêu huỷ hệ vi khuẩn bình thường của đường ruột bệnh nhân, làm cho hệ vi khuẩn bình thường này bị  thay thế bởi những vi khuẩn kháng thuốc(tụ cầu khuẩn, enterobacter, trực khuẩn mủ xanh) và nấm.

Một số kháng sinh được thải qua mật, nên dù đã được dùng qua đường tiêm tĩnh mạch vẫn có thể gây ra rối loạn hệ vi khuẩn bình thường của đường ruột, ví dụ kháng sinh ceftriaxone, các kháng sinh nhóm lincosamid.

Sự thay thế hệ vi khuẩn bình thường của đường ruột bởi những vi khuẩn kháng thuốc và nấm có thể dẫn đến những hậu quả như: Tiêu chảy kéo dài, đôi khi rất nặng nếu do tụ cầu khuẩn gây viêm ruột dạng lỵ hay do clostridium difficile gây viêm đại tràng màng giả. Bệnh nấm candida đường ruột. Thiếu vitamin nhóm B, vitamin K…

Để đề phòng tác dụng phụ này  thì có thể dùng thêm thuốc tái tạo hệ vi khuẩn bình thường của đường ruột như antibio,biosubtyl, enterogermina  sau một đợt trị liệu kháng sinh.

Một tác dụng phụ khác do sự phóng thích một lượng lớn nội độc tố từ sự phân huỷ một lượng lớn vi khuẩn sau một liều kháng sinh cao. Điển hình là phản ứng Jarisch-Herxheimer (sốt, lạnh run, nhức đầu, nhịp tim nhanh, tụt huyết áp nhẹ) khi điều trị giang mai. Hay phản ứng truỵ mạch khi dùng một liều chloramphenicol cao để điều trị bệnh thương hàn.

Để đề phòng những tác dụng phụ này nên bắt đầu điều trị với liều kháng sinh thấp và tăng lên từ từ.

Phản ứng dị ứng

Chẳng hạn như nổi mẫn ở da, đôi khi ở cả màng nhầy, có thể đi từ dạng nhẹ như ban đỏ, mày đay cho đến dạng rất nặng như hội chứng Lyell (sốt cao, da nổi bọng nước, viêm loét giác mạc). Phản ứng sốt, thường lầm với sốt do nhiễm trùng gây ra.

Một số trường hợp có những phản ứng giống trong bệnh huyết thanh (sốt, nổi mẫn ớ da, đau khớp, nổi hạch, khó thở, tiểu ra máu). Sốc phản vệ (nổi mày đay, mạch nhanh, huyết áp tụt kẹp.. có thể dẫn đến tử vong). Tăng bạch cầu ưa toan trong máu…

Nguyên nhân là do sự mẫn cảm cao ở một số người bệnh. Sự xuất hiện các phản ứng này không phụ thuộc vào liều lượng kháng sinh được dùng. Các kháng sinh thường gây ra các phản ứng dị ứng là các penicillin, và các sulfamide.

Tai biến do độc tính của kháng sinh

Xuất hiện do kháng sinh tác động lên một số cấu trúc tế bào hoặc một số men của tế bào.Tần suất xuất hiện các tai biến do độc tính và mức độ nặng nhẹ phụ thuộc vào khoảng thời gian dùng kháng sinh và liều kháng sinh được dùng. Dùng kháng sinh liều cao và trong một khoảng thời gian dài thì khả năng xuất hiện tai biến cao và tai biến thường nặng.

Các tai biến này bao gồm: Tai biến thận (viêm thận, suy thận), hay gặp khi dùng sulfamide, aminoside, vancomycin. Tai biến ốc tai tiền đình (chóng mặt, giảm thính lực) do dùng aminoside, vancomycin. Tai biến huyết học, thiếu máu do chloramphenicol, giảm bạch cầu hạt (sốt liên tục, nhiễm trùng) do các sulfamide.

Tai biến gan (viêm gan, tăng men gan…) khi dùng rifampicine, và các sulfamide. Tai biến thần kinh(co giật) khi dùng penicillin liều cao, nhất là ở bệnh nhân suy thận.

Tai biến cho thai nhi, phụ nữ có thai dùng các kháng sinh có độc tính và có thể đi qua nhau thai được(aminoside, chloramphenicol, sulfamide) thì có nguy cơ làm hư hại các cơ quan của thai nhi. Tai biến cho trẻ sơ sinh, do nhiều chức năng của cơ thể còn chưa hoàn chỉnh nên sự chuyển hoá các thuốc  nói chung  cũng như kháng sinh nói riêng không giống như ở người lớn. Vì vậy phải tránh dùng một số kháng sinh cho trẻ em như sulfamide (nguy cơ vàng da), chloramphenicol (hội chứng gray), quinolon (nguy cơ toan máu).

Những thông tin này là chỉ giúp bạn đọc tham khảo thêm. Để tránh những tác dụng phụ của kháng sinh như vừa nêu trên, tốt nhất không nên tự ý dùng, mà phải dùng theo chỉ định của bác sĩ. 

BS. Ngô Văn Tuấn - Theo Khoa học phổ thông
Bình luận
Tin mới
  • 17/09/2025

    8 tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày

    Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.

  • 17/09/2025

    6 Nguyên nhân gây teo dương vật và cách khắc phục

    Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.

  • 16/09/2025

    Trẻ trên 5 tuổi có cần bổ sung vi chất không?

    Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.

  • 16/09/2025

    Phải mất bao lâu để thấy được kết quả khi tiêm Botox?

    Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.

  • 15/09/2025

    Vì sao cá mè xứng đáng có trong thực đơn?

    Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.

  • 15/09/2025

    Thực phẩm giàu omega-3 giúp giảm nguy cơ tử vong sau cơn đau tim: Bằng chứng từ nghiên cứu quốc tế

    Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.

  • 14/09/2025

    Một chế độ ăn đơn giản giúp giảm ung thư, đái tháo đường và bệnh tim

    Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.

  • 14/09/2025

    Một số loại mất thính lực và nguyên nhân của chúng

    Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.

Xem thêm