Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có khoảng 390 triệu ca mắc bệnh sốt xuất huyết trên toàn cầu, 96 triệu người phải nhập viện cấp cứu và đa phần là trẻ em (thống kê mới nhất năm 2017).Cũng theo tổ chức này, Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Singapore và Malaysia là những quốc gia đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á báo cáo số ca nhiễm bệnh tăng lên đột biến khi đại dịch bùng phát.
Trong 9 tháng đầu năm nay, cả nước ghi nhận 77.355 ca sốt xuất huyết và 11 ca tử vong ở khu vực phía Nam. Bộ Y tế nhận định dịch sốt xuất huyết có thể kéo dài đến hết tháng 11.
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm do virus dengue gây ra và muỗi vằn aedes aegypti là vật chủ lây truyền virus dengue. Virus dengue xâm nhập vào cơ thể người thông qua vết muỗi đốt từ những muỗi cái mang mầm bệnh. Sau thời gian ủ bệnh, muỗi mang virus có thể lây lan virus cho người trong suốt quãng đời còn lại của nó.
Sau khi bị muỗi đốt 7-10 ngày, trẻ bắt đầu có triệu chứng, biểu hiện của sốt xuất huyết, thể hiện rõ qua 3 giai đoạn tiến triển bệnh:
Giai đoạn khởi phát: Triệu chứng điển hình ở giai đoạn này là sốt. Thân nhiệt bé tăng nhanh lên 39-40 độ C kèm theo các biểu hiện mệt mỏi, đau khớp, đau đầu, chán ăn, nôn, buồn nôn. Một số bé lớn hơn sẽ cho bạn biết tình trạng nhức đầu, đau hốc mắt, mệt mỏi, đau nhức khắp các cơ và khớp.
Cơn sốt liên tục, kéo dài khoảng 2-7 ngày, sốt cao có thể kèm co giật. Một số trẻ có biểu hiện sốt 2 pha: sốt 1-2 ngày đầu, ngưng sốt 3-4 ngày, sốt trở lại ngày thứ 5-6.
Sau sốt 2-3 ngày, trẻ có thể xuất huyết dưới da (ban đỏ dạng chấm, mảng bầm tím), niêm mạc (chảy máu cam, chảy máu chân răng) và nội tạng (xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết não, chảy máu phổi, chảy máu trong cơ).
Cha mẹ có thể dùng 2 ngón tay căng vùng da phát ban để phân biệt sốt xuất huyết với các loại bệnh khác. Nếu thấy chấm đỏ mất đi, buông tay ra thì chấm đỏ hồi phục ngay, là sốt phát ban. Còn nếu vẫn thấy chấm li ti hoặc sau 2 giây màu đỏ mới xuất hiện lại, là sốt xuất huyết.
Giai đoạn nguy cấp: Trẻ rơi vào giai đoạn này khi bệnh đã diễn tiến từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 6. Lúc này virus đã làm suy yếu hệ miễn dịch, số lượng bạch cầu, tiểu cầu giảm đáng kể… Ngoài ra, ở giai đoạn này, bé còn có các dấu hiệu bệnh điển hình như dịch tràn phổi khiến bé sưng phù ở bụng, xuất huyết nghiêm trọng, phù nề vùng ổ mắt, tiểu ra máu, chảy máu mũi, tụt huyết áp, đầu và tứ chi lạnh. Ở giai đoạn này, nếu trẻ không được chữa trị kịp thời, tình trạng xuất huyết nghiêm trọng và trụy tim mạch xuất hiện rất dễ khiến trẻ tử vong.
Giai đoạn hồi phục: Đây là giai đoạn bé dần hồi phục nếu được chăm sóc và chữa trị kịp thời. Sau 2-3 ngày qua khỏi giai đoạn nguy hiểm, bé sẽ dấu hiệu điển hình là bắt đầu hạ sốt; có cảm giác thèm ăn, khát nước; số lượng tiểu cầu, bạch cầu tăng lên (khi làm xét nghiệm).
Hầu hết trẻ sốt xuất huyết có thể điều trị ngoại trú và chăm sóc tại nhà theo hướng dẫn của bác sĩ.
Cha mẹ cần chú ý bù nước cho trẻ bằng nước sôi để nguội, nước trái cây (dừa, cam, chanh...) hoặc nước cháo loãng với muối, tốt nhất là oresol. Trẻ đang sốt cao, phản ứng của cơ thể rất mạnh, cha mẹ không được tự ý truyền nước để tránh gây sốc, nguy hiểm đến tính mạng. Không ít trường hợp tử vong đáng tiếc là do cha mẹ tự ý mang trẻ đến các phòng khám tư truyền dịch.
Nếu sốt cao trên 38,5 độ C, bé cần uống thuốc hạ sốt chứa paracetamol theo chỉ định của bác sĩ (tổng liều không quá 60 mg/kg cân nặng trong 24 giờ), tuyệt đối không dùng aspirin, analgin, ibuprofen vì có thể gây xuất huyết, toan máu. Nếu thân nhiệt của bé vẫn không hạ thì có thể nới lỏng quần áo, lau mát hoặc nằm phòng điều hòa 27-28 độ C.
Về chế độ ăn, các bậc cha mẹ nên cho trẻ ăn thức ăn loãng, dễ tiêu, chia làm nhiều bữa nhỏ. Phụ huynh không nên cho bé dùng thực phẩm có màu đen hoặc đỏ sẫm như thanh long, dưa hấu, củ dền… để tránh trường hợp trẻ đi ngoài phân đen hoặc đỏ, gây nhầm lẫn với xuất huyết tiêu hóa. Trẻ cần được nghỉ ngơi, hạn chế vận động trong giai đoạn sốt để tránh xuất huyết nặng.
Nếu trẻ tự nhiên bồn chồn, kích thích vật vã, lừ đừ, đau bụng vùng gan tăng, da sung huyết nhưng chân tay lạnh, nôn tăng đột ngột, nôn ra máu hoặc đi ngoài máu tươi, tiểu ít… thì phải nhập viện ngay. Đối với trường hợp bệnh diễn biến nặng, nếu bé được nhập viện theo dõi và chăm sóc kịp thời, tỷ lệ tử vong sẽ giảm từ 20% xuống còn 1%.
Tại bệnh viện bác sĩ sẽ xét nghiệm máu, đánh giá thêm 3 dấu hiệu nữa gồm phù nề, tràn dịch, gan to, tiểu cầu giảm để xác định trẻ bệnh nặng. Nếu được điều trị hợp lý, trẻ sẽ dần hồi phục, chân tay ấm lên, ra mồ hôi, mạch và huyết áp ổn định dần, lượng nước tiểu nhiều hơn, tỉnh táo, bắt đầu ăn ngon miệng và sinh hoạt bình thường.
Sốt xuất huyết hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vaccine phòng ngừa. Cách phòng bệnh tốt nhất là diệt muỗi, lăng quăng (bọ gậy), phòng chống muỗi đốt cho bé và cả gia đình để tránh tình trạng bệnh lây truyền.
Nếu gia đình có người mắc bệnh, mọi thành viên trong gia đình phải ngủ trong màn, cách ly người bệnh để tránh trường hợp muỗi đốt người bệnh và truyền virus gây bệnh cho người khác.
Cả gia đình có thể loại bỏ nơi sinh sản của muỗi, diệt lăng quăng (bọ gậy) bằng cách đậy kín tất cả dụng cụ chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng; thả cá bảy màu vào các dụng cụ chứa nước lớn (bể, giếng, chum, vại…) để diệt lăng quăng hay bọ gậy.
Ngoài ra, thu gom, tiêu hủy các vật dụng phế thải trong nhà và xung quanh khu vực sinh sống như chai, lon, lọ, mảnh chai, mảnh lu vỡ, vỏ dừa, lốp/vỏ xe cũ, hốc tre, bẹ lá… cũng là việc làm cần thiết.
Cuối cùng, các gia đình cần phối hợp với chính quyền và cơ sở y tế địa phương trong các đợt phun xịt hóa chất phòng, chống dịch sốt xuất huyết bùng phát.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Để hồi phục nhanh sau sốt xuất huyết
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.