Bệnh từ thực phẩm: Nguyên nhân và cách phòng tránh
Tính an toàn thực phẩm là vấn đề được ưu tiên hàng đầu ở mọi giai đoạn của chuỗi thực phẩm, từ trang trại đến bàn ăn. Tuy nhiên, thực phẩm có thể bị ô nhiễm, dẫn đến hỏng thực phẩm hoặc có thể gây bệnh nếu ăn phải. Sự ô nhiễm này có thể xảy ra ở bất cứ khâu nào của chuỗi thực phẩm, từ thu hoạch hoặc giết mổ đến khâu chế biến, bảo quản, phân phối, bán lẻ, cho đến lúc chuẩn bị và phục vụ thức ăn trong gia đình.
Vậy thực phẩm bị nhiễm các vi khuẩn như thế nào? Và người tiêu dùng có thể làm gì để đảm bảo rằng thực phẩm an toàn?
Vi khuẩn trong thực phẩm
Cho dù là thực phẩm sống hay đã chế biến thì rất ít khi thực phẩm hoàn toàn vô trùng khi đến tay người tiêu dùng. Thực phẩm thường chứa vi khuẩn hoặc các loại vi sinh vật,
Lớp mô bên trong của động thực vật có rất nhiều hàng rào bảo vệ khỏi vi khuẩn, do vậy, rau và thịt được thu hoạch tươi sống và an toàn thường sẽ vô trùng. Tuy nhiên, quá trình diễn ra sau khi thu hoạch/ giết mổ hoặc trong khi chế biến có thể làm vi khuẩn xâm nhập vào thực phẩm. Vi khuẩn có thể xuất phát từ bản thân cây trồng/ vật nuôi, hoặc có trong môi trường tự nhiên, môi trường nhà máy chế biến (trong đất hoặc trong các loại côn trùng, chim hoặc động vật gặm nhấm) hoặc vi khuẩn có thể đến từ con người.
Đa số các sự hư hỏng thực phẩm đều là do hoạt động vủa vi sinh vật gây ra. Sự hư hỏng này có thể không nhất thiết làm cho thực phẩm trở nên không an toàn, nhưng có thể làm cho thực phẩm có mùi khó chịu. Ví dụ như nấm men và vi khuẩn sinh axit lactic có thể làm hỏng nước sốt và đồ uống, hay chất nhờn được sản sinh ra từ các loại vi khuẩn có thể làm cho thịt ướp lạnh trông không được ngon mắt.
Các bệnh do thực phẩm
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mặc dù có sự phát triển của các kỹ thuật hiện đại cũng như những cố gắng để cung cấp thực phẩm an toàn đến tay người tiêu dùng, nhưng bệnh tật đến từ thực phẩm vẫn là một vấn nạn ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Tại Anh, hàng năm cứ 1.000 người thì lại có 1 người chịu ảnh hưởng từ các bệnh do thực phẩm gây ra, con số này cao hơn gấp đôi so với năm 1987. Ở Thụy Điển,có hơn 5.000 trường hợp nhiễm vi khuẩn salmonella hàng năm. Rõ ràng, thực phẩm bẩn vẫn đang là một vấn nạn ở nhiều quốc gia.
Có 2 dạng bệnh do thực phẩm gây ra:
Nhiễm trùng: là hậu quả của việc ăn những thực phẩm có chứa các vi sinh vật gây bệnh, sau đó những vi sinh vật này nhân lên ở trong cơ thể và gây các bệnh. Có 2 loại:
Nhiễm độc: Hậu quả của việc ăn thực phẩm bị nhiễm các độc tố sinh ra từ các vi sinh vật, thậm chí cả khi vi sinh vật không xâm nhập vào cơ thể người. Triệu chứng có thể xuất hiện vài giờ sau khi ăn thực phẩm nhiễm dộc tố vi khuẩn. Ví dụ như ngộ độc thức ăn do vi khuẩn Clostridium botulinum gây ra.
Đặc biệt cân nhắc
Loại thực phẩm nào có nguy cơ nhiễm vi sinh vật cao nhất?
Thực phẩm có nguồn gốc từ động vật là nguồn thực phẩm dễ bị nhiễm vi khuẩn nhất, ví dụ như Salmonella, Listeria, Campylobacter, E.Coli và L. monocytogenes. Việc nhiễm khuẩn có thể xảy ra từ khi con vật còn sống, và vẫn tồn tại sau khi con vật đã bị giết mổ. Nếu không có phương pháp thích hợp để tiêu diệt vi khuẩn hoặc nếu điều kiện vệ sinh, nhiệt độ, độ ẩm kém, vi khuẩn đôi khi vẫn có thể tồn tại trong những sản phẩm chế biến cuối cùng đến tay người tiêu dùng.
Những loại thực phẩm có nguy cơ cao bao gồm:
Thịt gia cầm, thịt và trứng: Tỷ lệ nhiễm bẩn cao nhất thường gặp ở thịt gia cầm. Trứng có thể mang vi khuẩn như Salmonella enteritidis trên vỏ trứng hoặc bên trong lòng trứng. Cách tốt nhất để ngăn chặn các bệnh gây ra do thịt gia cầm và trứng là thông qua việc chế biến. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị rằng, trứng sống nên được coi là thành phần tiềm năng có thể gây nguy hiểm và không nên được dùng làm thực phẩm, trừ khi được làm chín.
Thịt đỏ: Loại thịt này có thể chứa các vi sinh vật gây bệnh, với số lượng ít hơn thịt gia cầm. Quá trình xay thịt để làm thịt băm hoặc bánh mỳ kẹp thị có thể làm vi khuẩn lây nhiễm từ một nguồn ban đầu sang các nguồn khác. Và cũng như thịt gia cầm, thịt đỏ nên được nấu chín trước khi ăn.
Các sản phẩm từ sữa: Sữa vắt trực tiếp từ động vật có thể chứa rất nhiều tác nhân gây bệnh có nguồn gốc từ bản thân sữa hoặc từ môi trường. Quá trình tiệt trùng có thể tiêu diệt tất cả các tác nhân gây bệnh và đảm bảo rằng sữa không chứa các loại vi sinh vật. Trong khi đa số các tác nhân gây bệnh được bất hoạt bởi rất nhiều phương pháp sử dụng trong quá trình sản xuất ra các sản phẩm sữa, bao gồm cả quá trình axit hóa và lên men sữa thì có một số ít các tác nhân vẫn có thể tồn tại sau những quá trình này.
Động vật có vỏ cứng: Động vật có vỏ cứng có thể tập trung mầm bệnh trong cơ thể. Động vật có vỏ cứng được xử lý nhiệt không đầy đủ có thể gây ra một loại các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn (như Vibrio và Shigella), ký sinh trùng và virus.
Thảo mộc và gia vị: Những loại này thường mang rất nhiều vi khuẩn như Bacillus cereus, Clostridium perfringens và Salmonella.
Làm thế nào để chế biến thực phẩm an toàn?
Có rất nhiều phương pháp được dùng để tiêu diệu vi sinh vật hoặc làm chúng không phát triển, bao gồm:
Vẫn có một khả năng rất nhỏ những loại thực phẩm này vẫn chứa các tác nhân gây bệnh sau khi chế biến. Nhưng việc này có thể tránh được nếu tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về vệ sinh trước, trong và sau khi chế biến thực phẩm
Tránh ô nhiễm thực phẩm
Giữ thực phẩm an toàn, không bị ô nhiễm là trách nhiệm chung của tất cả mọi người tham gia vào chuỗi chế biến thực phẩm, từ trang trại đến bàn ăn.
Ở mức độ trang trại, có một số quy định cần phải tuân thủ nghiêm ngặt. Ví dụ như sau khi giết mổ, thịt cần được kiểm tra để tách riêng thịt bị nhiễm bệnh và thịt an toàn. Tuy nhiên, kể cả những con vật khỏe mạnh cũng có thể mang các tác nhân gây bệnh cho người trong quá trình giết mổ. Những tác nhân này có thể sẽ rất khó để tiêu diệt. Hoa quả, rau xanh và thảo mộc tươi cũng có thể nhiễm bẩn nếu được bón phân động vật hoặc được tưới bằng nguồn nước không sạch.
Ở mức độ nhà máy chế biến, có một số phương pháp để ngăn chặn thực phẩm không bị nhiễm bệnh, bao gồm:
Ở mức độ gia đình, có thể áp dụng một số phương pháp sau:
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: 10 lời khuyên an toàn thực phẩm vào mùa hè
Vitamin D3 và K2 là hai vi chất thiết yếu giúp trẻ phát triển hệ xương chắc khỏe và tăng trưởng chiều cao tối ưu. Tuy nhiên, không phải cứ bổ sung là cơ thể sẽ hấp thu hiệu quả. Thực tế, cả vitamin D3 và K2 đều là vitamin tan trong dầu, và đặc tính này khiến chúng rất khó hấp thu qua đường tiêu hóa, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Việc bổ sung mà không có sự hỗ trợ của công nghệ có thể dẫn đến hấp thu kém, giảm hiệu quả và gây lãng phí.
Các bệnh về gan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn cầu. Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của gan.
Có thể bạn uống quá liều cà phê hay uống một ly nước tăng lực, bạn gặp dấu hiệu run rẩy, nhịp tim không đều, đau bụng và các tác dụng phụ khác của caffeine. Từ việc uống nước đến ăn chuối, hãy tìm hiểu cách thực sự hiệu quả để trung hòa tác dụng của quá nhiều caffeine.
Vitamin D3 (cholecalciferol) và vitamin K2 (menaquinone) là hai vi chất dinh dưỡng đóng vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển hóa canxi và phát triển hệ xương. Trong bối cảnh trẻ em có xu hướng giảm đáng kể tiếp xúc với ánh nắng tự nhiên (nguồn tổng hợp chính của vitamin D3) và chế độ ăn uống của trẻ không đảm bảo đủ lượng vitamin K2, việc bổ sung phối hợp hai vi chất này thông qua các sản phẩm bổ sung ngày càng được quan tâm của các chuyên gia dinh dưỡng nhi khoa cũng như các bậc cha mẹ.
Suy thận thường được coi là bệnh của người lớn tuổi nhưng thực tế, các yếu tố nguy cơ và thói quen ăn uống không lành mạnh ở một bộ phận người trẻ có thể âm thầm dẫn đến suy thận.
Trong suốt lịch sử y học, tiêm chủng được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất, mang lại khả năng phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn tồn tại không ít lo ngại và hiểu lầm về quy trình và tác dụng của việc tiêm vaccine.
Vitamin D3 (cholecalciferol) là một vi chất dinh dưỡng thiết yếu, có vai trò trung tâm trong quá trình khoáng hóa xương, chuyển hóa canxi–phospho, hỗ trợ hệ miễn dịch, điều hòa nội tiết và góp phần phòng ngừa nhiều bệnh mạn tính. Các thụ thể vitamin D được tìm thấy ở hầu hết các mô trong cơ thể, cho thấy phạm vi ảnh hưởng sinh học rất rộng của vitamin D(1).
Mùa hè với ánh nắng gay gắt là thời điểm làn da dễ bị tổn thương nhất. Vậy làm sao để bảo vệ da không bị bắt nắng, duy trì làn da khỏe mạnh và sáng mịn?