Ảnh minh họa/INT.
Sau 9 tháng 10 ngày mang thai, người mẹ sẽ bước sang giai đoạn cuối cùng là chuyển dạ và sinh con. Đây có lẽ là nỗi sợ hãi đối với nhiều mẹ bầu vì "truyền thuyết" đẻ con đau như gãy xương sườn hay không đau gì bằng đau đẻ.
Trên thực tế, mẹ hoàn toàn có thể giảm bớt đau đớn cho bản thân, rút ngắn thời gian sinh nở bằng cách tìm hiểu kĩ càng quá trình sinh con, kĩ thuật thở và rặn khi sinh.
Rặn sinh và thở đúng cách sẽ giúp cho cuộc sinh nở của người mẹ diễn ra nhanh chóng hơn, đỡ mất sức và tránh được các biến chứng sinh như băng huyết sau sinh, tổn thương đến vùng kín,...
Trong quá trình sinh nở, mẹ bầu nên bình tĩnh, tự tin, tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ và tránh mắc 7 sai lầm dưới đây kẻo sẽ càng đau đớn, mất sức hơn.
1. La hét, khóc lóc
La hét hay khóc lóc là phản ứng sinh lý bình thường khi cơ thể phải chịu cơn đau. Tuy nhiên, vì cơn đau đẻ sẽ đến từ từ, tăng dần cấp độ nên mẹ hãy cố gắng làm quen, bình tĩnh, tránh việc la hét vì nó sẽ làm mẹ mất sức, gián đoạn nhịp thở và còn gây mất tập trung cho các y bác sĩ.
Mẹ la hét, khóc lóc khi sinh sẽ càng thêm mất sức.
2. Nhắm mắt
Nhiều mẹ cho rằng việc nhắm mắt sẽ giúp mình bình tĩnh hơn và dễ tập trung hơn vào nhịp thở để rặn sinh. Tuy nhiên, nếu nhắm mắt khi sinh con, mẹ sẽ dễ bị chóng mặt và không theo dõi được hướng dẫn của bác sĩ.
3. Dùng sức khi không có cơn co
Cơn co tử cung luôn mang tính chất chu kỳ. Khi cổ tử cung đã mở hết và em bé sẵn sàng ra ngoài thì số lượng cơn co trung bình sẽ là 3 cơn/10 phút.
Khi cơn co đến, mẹ sẽ có cảm giác đau đớn, bụng cứng lên, sau đó cảm giác đau sẽ giảm dần. Đó là khoảng thời gian cho mẹ tạm nghỉ và hồi sức. Mẹ cần theo dõi cơn co để chọn thời điểm rặn sinh chính xác, tránh dùng sức rặn khi đang vào khoảng nghỉ thì sẽ chỉ thêm mệt mà không có hiệu quả.
4. Rặn quá mạnh
Khi tử cung co vào cực mạnh là lúc mẹ cần rặn để bồi thêm lực giúp đẩy em bé ra ngoài. Nhưng mẹ cần chú ý là chọn thời điểm rặn chính xác quan trọng hơn nhiều so với lực rặn.
Rặn sinh quá mạnh có thể làm tổn thương vùng kín, siết chặt cơ vùng chậu làm ảnh hưởng đến em bé.
5. Nằm bẹp xuống giường
Nằm thẳng lưng trên giường khi chuyển dạ sẽ chỉ làm cho mẹ thêm đau đớn và em bé khó ra hơn. Vì vậy khi rặn sinh, mẹ nên ngẩng đầu, cuộn người lại, đầu gối co lên và mở rộng hai chân.
Ngoài ra, mẹ có thể hỏi ý kiến bác sĩ về tư thế quỳ gối khi sinh con cũng rất hiệu quả.
Khi sinh nở, việc mẹ nằm bẹp thẳng lưng xuống giường sẽ khiến bé khó ra hơn.
6. Nín thở
Khi rặn sinh, nhiều mẹ có xu hướng nín thở để lấy thêm lực. Tuy nhiên thực tế, việc mẹ nín thở rất nguy hiểm vì nó làm gián đoạn oxy cung cấp tới thai nhi. Do đó, thay vì nín thở, mẹ hãy hít sâu, thở mạnh theo đúng nhịp hướng dẫn của bác sĩ.
7. Tập trung lực lên mặt
Khi sinh con, mẹ cần tập trung lực vào phần dưới của cơ thể để siết cơ sàn chậu lại chứ không phải tạo lực lên mắt, mặt.
Nhiều trường hợp mẹ rặn đẻ sai cách, tập trung lực lên mặt, mắt dẫn đến tình trạng vỡ mạch máu, xuất huyết và tạo cục máu đông ở mắt.
Tham khảo thông tin tại bài viết: Những nguy cơ dễ gặp khi phụ nữ sinh con muộn
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?