Niêm mạc mũi có một mạng lưới mao mạch dày đặc, nổi rất nông để thực hiện chức năng làm ấm và làm ẩm không khí trước khi vào phổi. Do đó, chỉ cần một chấn thương nhẹ như ngoáy mũi hoặc va quyệt nhẹ đã có thể gây chảy máu mũi. Mùa hanh lạnh niêm mạc mũi dễ bị nứt nẻ gây chảy máu.
Chấn thương và bệnh lý gây chảy máu mũi
Mạch máu cung cấp cho lưới mao mạch mũi gồm: động mạch cảnh ngoài với các nhánh động mạch bướm khẩu cái, động mạch khẩu cái lên; động mạch cảnh trong với các nhánh động mạch sàng trước, động mạch sàng sau.
Các nhánh động mạch này quy tụ tại một điểm ở phía trước và dưới vách ngăn, cách cửa mũi trước khoảng 1,5cm, gọi là điểm mạch Kisselbach. Nếu va chạm vào điểm mạch này, thường gây chảy máu nặng.
Chấn thương như tai nạn lao động, tai nạn giao thông, bị đánh... Bệnh nhân mắc các bệnh: tăng huyết áp, bạch cầu tuỷ cấp, suy tuỷ, bệnh ưa chảy máu, sốt xuất huyết, suy gan, suy thận...
Nhận biết chảy máu mũi nặng nhẹ
Các nhà chuyên môn phân biệt các loại chảy máu mũi gồm: chảy máu điểm mạch Kisselbach; chảy máu do tổn thương động mạch; chảy máu lan tỏa do tổn thương mao mạch, máu rỉ khắp niêm mạc mũi, không có điểm nhất định thường xuất hiện trong các bệnh bạch cầu tuỷ cấp, bệnh ưa chảy máu, thương hàn, sốt xuất huyết. Mặt khác, dựa vào mức độ chảy máu, người ta đánh giá tình trạng chảy máu mũi theo 3 mức độ: nhẹ, vừa và nặng.
Chảy máu mũi nhẹ: thường do chấn thương nhẹ khi ngoáy mũi hoặc mắc các bệnh như cúm, thương hàn... Tuy nhiên cũng có khi ở người khoẻ mạnh nhưng tự nhiên bị chảy máu mũi. Soi mũi thấy máu chảy ra từ điểm mạch hoặc động mạch, mức độ không nhiều, chảy từng giọt, số lượng ít hơn 100ml và có xu hướng tự cầm. Loại chảy máu này thường gọi là chảy máu cam, hay gặp ở trẻ em, tiên lượng nhẹ.
Chảy máu mũi vừa: máu chảy thành dòng ra ngoài lỗ mũi hoặc chảy xuống họng, số lượng từ 100 - 200ml. Có thể do chảy máu mao mạch của toàn bộ niêm mạc mũi, gặp ở bệnh ưa chảy máu, xuất huyết giảm tiểu cầu.
Chảy máu mũi nặng: do tổn thương động mạch mũi trong các bệnh tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, xơ gan... máu chảy nhiều thành dòng kéo dài, bệnh nhân trong trạng thái kích thích, hốt hoảng, môi mặt xanh nhợt, mạch nhanh, huyết áp hạ, số lượng máu mất nhiều hơn 200ml hay gặp ở bệnh nhân lớn tuổi có bệnh mạn tính; hoặc chấn thương gây tổn thương động mạch sàng và thường chảy máu khó cầm. Soi mũi: rất khó thấy điểm chảy vì điểm chảy thường ở trên cao và ở phía sau, nhưng lượng máu chảy ra nhiều.
Xử trí cấp cứu chảy máu mũi
Gặp một bệnh nhân đang chảy máu mũi, việc cần làm là phải cầm máu ngay. Bệnh nhân cần ngồi cúi người ra trước để tránh máu chảy vào trong họng. Trường hợp chảy máu nặng phải chú ý tình trạng toàn thân của bệnh nhân bằng cách theo dõi sát mạch, huyết áp. Việc cầm máu được thực hiện từ đơn giản đến phức tạp như sau:
Nếu chảy máu mũi nhẹ: chảy máu ra từ điểm mạch, người cấp cứu dùng hai ngón tay bóp hai cánh mũi lại vừa chặt tay để cho điểm Kisselbach được ép lại cầm máu. Dùng bông có tẩm dung dịch cầm máu như ôxy già 12 thể tích, ephedrin 1-3% nhét vào lỗ mũi, ép đè lên chỗ chảy máu .
Trường hợp chảy máu nặng: sử dụng phương pháp nhét mechè mũi trước hoặc mũi sau.
Nhét mechè mũi trước: gây tê hốc mũi bằng Lidocain, dùng cuộn mechè có bề rộng 1-1,5cm, bề dài 50cm tẩm mỡ kháng sinh nhét vào mũi, chú ý nhét mechè có hình đáy võng để mechè không bị tụt xuống thành sau họng, nhét chặt từ sau ra trước cho tới khi đầy ra tận cửa mũi trước. Dùng đè lưỡi kiểm tra xem máu có chảy xuống thành sau họng hay không, nếu không thấy chảy xuống là tốt. Thời gian lưu mechè từ 24 - 48 giờ.
Đối với trường hợp chảy máu nhiều do chấn thương, tăng huyết áp...nếu nhét mechè mũi trước mà chưa cầm máu thì phải nhét mechè mũi sau. Cách nhét mechè mũi sau: dùng cục gạc bịt kín cửa mũi sau để ngăn không cho máu chảy xuống thành sau họng, đường kính cục gạc khoảng 2-2,5cm, chiều cao 2,5cm có buột dây ở giữa, mỗi đầu dài khoảng 30cm. Sau khi bịt kín được cửa mũi sau, phải tiếp tục nhét mechè mũi trước. Lưu mechè mũi sau từ 48-72 giờ, trong thời gian này phải điều trị kháng sinh để chống nhiễm khuẩn.
Trường hợp chảy máu mao mạch, nhất là ở trẻ em, có thể dùng các loại protein tự tiêu có tác dụng cầm máu như spongel. Nếu có điều kiện thì dùng merocel là một loại bọt xốp có hình hố mũi, đặt vào mũi, tưới nước, nó nở căng to ôm khít lòng hố mũi, máu cầm ngay mà bệnh nhân không đau. Hoặc dùng bong bóng cao su cho vào mũi rồi bơm căng, lúc lấy ra chỉ cần xì hơi, rất tiện. Ở nước ta, nhiều bệnh viện đã dùng đông điện dưới sự hướng dẫn của nội soi để cầm máu.
Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi yên tĩnh, ngồi hoặc nằm đầu cao, há miệng để thở và nhổ máu ra. Truyền dịch nếu bệnh nhân bị truỵ mạch, hạ huyết áp.
Truyền máu nếu Hb dưới 50%, tốt nhất là truyền máu tươi liều nhỏ (100ml) nhiều lần. Dùng thuốc corticoid như depersolone tiêm tĩnh mạch trong chảy máu, nếu không có chống chỉ định. Dùng kháng sinh đề phòng nhiễm khuẩn. Dùng thuốc đông máu để làm tăng vững bền thành mạch, giảm thời gian chảy máu như adrenoxyl, premarin, tranesamic acid... hoặc trực tiếp làm đông máu như vitamin K...
Gần đây, trên mạng xã hội lan truyền thông tin cho rằng dùng quá nhiều thực phẩm bổ sung và thực phẩm tăng cường acid folic có thể gây độc, thậm chí dẫn đến ung thư. Thực hư thông tin này ra sao?
Người lớn và trẻ em bị dị ứng đường hô hấp, chẳng hạn như viêm mũi dị ứng (viêm đường mũi sau khi tiếp xúc với chất gây dị ứng), có nguy cơ cao bị chảy máu cam.
Đốm đồi mồi là những vết sẫm màu, phẳng do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thường xuất hiện trên mặt, tay và các vùng da hở khác. Hãy trao đổi với bác sĩ chuyên khoa da liễu trước khi sử dụng các biện pháp khắc phục tự nhiên.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.