Tiến sĩ, bác sĩ Trần Nguyên Ngọc, Trưởng phòng Điều trị Rối loạn Cảm xúc, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, cho biết trầm cảm hiện thường gặp trong cộng đồng. Giai đoạn trầm cảm khởi đầu cho các rối loạn cảm xúc tiếp theo, có thể diễn ra theo nhiều hình thái khác nhau như rối loạn cảm xúc lưỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm tái diễn...
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ước tính có khoảng 340 triệu người trên thế giới mắc trầm cảm và ít nhất 15% dân số có biểu hiện trầm cảm rõ rệt ở một giai đoạn nào đó trong cuộc sống. Năm 2000, trầm cảm đứng thứ 4 trong 15 bệnh gây gánh nặng bệnh tật toàn cầu, dự đoán cho đến năm 2020 căn bệnh này đứng thứ 2 và năm 2030 sẽ leo lên vị trí thứ nhất.
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, đặc biệt từ 25 đến 44, trong đó bệnh nhân nữ gấp đôi nam. Phụ nữ sau mãn kinh có nguy cơ mắc trầm cảm gấp 2 lần so với chưa mãn kinh. Tại các cơ sở y tế chuyên khoa, số lượng bệnh nhân đến thăm khám các bệnh lý liên quan đến trầm cảm tăng 20-30% mỗi năm.
Việt Nam có khoảng 3 triệu thanh, thiếu niên có các vấn đề về sức khỏe tâm lý, tâm thần. Chỉ khoảng 20% trong số đó nhận được hỗ trợ y tế và điều trị cần thiết, theo nghiên cứu của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF).
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, trầm cảm được cho là một bệnh lý do sự mất cân bằng các chất dịch trong cơ thể. Cha đẻ của ngành y học thế giới, thầy thuốc Hippocrates (năm 460 - 377 TCN) dùng thuật ngữ "sầu uất" xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, để chỉ trầm cảm. Ông cho rằng quá nhiều mật đen trong lách gây ra các biểu hiện như sợ hãi và chán nản, thất vọng kéo dài.
Thế kỷ 14, thuật ngữ "trầm cảm" (depression) xuất phát từ động từ deprimere trong tiếng Latin, nghĩa là "đè nén" (press down), được sử dụng với ý nghĩa là sự đè nén, giảm sút nặng về tinh thần.
Thế kỷ 20, Sigmund Freud đề cập tới cơ chế sự mất mát gây nên sầu uất nghiêm trọng, không chỉ trạng thái tiêu cực bên ngoài mà còn do cái tôi bên trong bị tổn thương gây suy giảm sự tự nhận thức, cảm giác tội lỗi, thấp kém và vô giá trị.
Sau này, nghiên cứu chỉ ra rằng trầm cảm là do mất cân bằng các chất dẫn truyền thần kinh của não, mở ra hướng nghiên cứu về sự liên quan giữa thay đổi mức monoamine trong não với các triệu chứng trầm cảm, là cơ sở nghiên cứu bệnh sinh và điều trị trầm cảm.
Có nhiều cách phân loại rối loạn trầm cảm như phân loại theo nguyên nhân bao gồm trầm cảm nội sinh, tâm sinh, thực tổn. Phân loại theo mức độ bao gồm giai đoạn trầm cảm nhẹ, vừa, nặng. Phân loại theo sự có mặt của các triệu chứng loạn thần bao gồm trầm cảm có triệu chứng loạn thần và trầm cảm không có triệu chứng loạn thần. Phân loại theo sự có mặt của các triệu chứng cơ thể là trầm cảm có triệu chứng cơ thể và trầm cảm không có triệu chứng cơ thể.
![]() |
|
Trầm cảm kéo dài để lại nhiều hậu quả nặng nề cho trẻ em về mặt phát triển xã hội, phát triển cảm xúc và học tập. Ảnh: Straitstimes |
Trầm cảm bao gồm 3 biểu hiện chính và 7 triệu chứng phổ biến, tồn tại trong khoảng ít nhất 2 tuần.
Biểu hiện chính là khí sắc trầm, mất quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động. Triệu chứng phổ biến là giảm sút sự tập trung và sự chú ý, giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin, có ý tưởng bị tội và không xứng đáng với người khác. Trầm cảm khiến người mang bệnh bi quan, nhìn tương lai ảm đạm, có ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ, ăn ít ngon miệng. Người bị trầm cảm có thể gây nguy hiểm đối với người khác như xô xát, cãi vã và giết người.
Tuy nhiên, cần phân biệt trầm cảm với các rối loạn khác. Người bệnh có ảo giác như nghe tiếng nói lạ trong đầu hay nhìn thấy các hình ảnh khác thường và hoang tưởng điều kỳ lạ là dấu hiệu của rối loạn loạn thần cấp. Bệnh nhân có một giai đoạn hưng cảm kích thích, tăng khí sắc, nói nhanh là biểu hiện của rối loạn lưỡng cực. Bệnh nhân dùng rượu và ma túy có thể là rối loạn do sử dụng rượu hoặc rối loạn do dùng chất ma túy.
Để điều trị, bác sĩ căn cứ vào nguyên nhân và dạng rối loạn trầm cảm để dùng thuốc và trị liệu tâm lý, hành vi phù hợp. Người có dấu hiệu trầm cảm cần đến gặp bác sĩ để được tư vấn kịp thời, làm giảm và mất hoàn toàn các triệu chứng, phòng ngừa tái phát.
Người bệnh không coi nhẹ triệu chứng trầm cảm, hãy kể hết triệu chứng cho bạn bè, cho người thân. Khi phát hiện người bị trầm cảm, phải trấn an, tìm hiểu, tìm cách quan tâm và giúp đi khám bác sĩ chuyên khoa sớm để tránh cơn trầm uất, thất thần quẫn trí. Bệnh nhân trầm cảm cần phải khám nhiều lần để điều trị, theo dõi đề phòng nặng thêm.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Bệnh trầm cảm có di truyền không?
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.
Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe xương, hỗ trợ chức năng miễn dịch và điều hòa nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể. Thiếu hụt vitamin D kéo dài có thể dẫn đến loãng xương, yếu cơ, tăng nguy cơ gãy xương và làm giảm khả năng chống nhiễm trùng.
Cúm mùa là một bệnh đường hô hấp do virus cúm gây ra, lây lan mạnh vào mùa thu và mùa đông. Mỗi năm có khoảng 1 tỷ người mắc cúm, trong đó có từ 3 đến 5 triệu trường hợp diễn biến nặng. Tiêm phòng cúm là cách hiệu quả để giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt với những người có nguy cơ cao. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ phân tích lợi ích của việc tiêm vắc xin cúm, đối tượng cần ưu tiên tiêm và thời điểm thích hợp để thực hiện tiêm chủng.
Trứng là nguồn protein hoàn hảo nhưng để tối ưu hóa năng lượng và khả năng hấp thụ dưỡng chất cần ăn đúng cách. Tham khảo 5 thực phẩm nên ăn cùng trứng giúp trứng phát huy tối đa sức mạnh dinh dưỡng.