Viêm tai xương chũm có thể gặp ở mọi lứa tuổi và được chia làm hai loại cấp tính và mạn tính. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà bác sĩ có chỉ định riêng, có thể phẫu thuật hoặc điều trị nội khoa bằng kháng sinh và một số thuốc khác nhằm mục đích hỗ trợ để nhanh chóng đẩy lùi bệnh.
Viêm tai xương chũm thực chất là viêm tai giữa vì xương chũm là một bộ phận của tai giữa (tai giữa bao gồm hòm nhĩ - vòi tai và xương chũm). Viêm tai giữa là hiện tượng viêm niêm mạc trong tai giữa còn viêm xương chũm là hiện tượng viêm đã đi qua lớp niêm mạc tai giữa mà vào xương chũm. Bệnh lý này được chia làm hai loại là cấp tính và mạn tính với các phương pháp điều trị và dùng thuốc khác nhau.
Trước đây khi chẩn đoán viêm tai xương chũm cấp tính, đồng nghĩa đây là một cấp cứu và có chỉ định phẫu thuật khoét bỏ phần xương chũm bị viêm. Khoảng 10 năm trở lại đây, nhờ thành quả của các nhóm kháng sinh và kháng viêm mà chỉ định phẫu thuật viêm tai xương chũm cấp hạn chế dần.
Hình ảnh xương chũm bị viêm ở tai.
Kháng sinh: Nhóm thuốc thường dùng là cephalosporine các thế hệ. Đây là nhóm kháng sinh phổ rộng có tác dụng diệt khuẩn đối với nhiều loại vi khuẩn Gram âm và Gram dương. Có thể khởi đầu bằng loại tiêm để tấn công và tiếp tục điều trị bằng loại uống tùy theo tình trạng của từng bệnh nhân. Liều dùng loại kháng sinh này có sự thay đổi ở người suy thận với các mức độ nhẹ, trung bình, nặng khác nhau phụ thuộc vào độ thanh thải creatinine của cơ thể. Để có tác dụng, kháng sinh phải dùng đúng theo liều chỉ định và đủ thời gian mà bác sĩ khuyên dùng. Không nên tự ý dừng khi thấy cơ thể hết sốt hoặc hết tất cả các triệu chứng khác, khi cơ thể mệt mỏi vì điều này không có nghĩa bệnh đã khỏi hoàn toàn mà lại làm chậm quá trình lành bệnh. Khi sử dụng nhóm thuốc này, người bệnh cần thông báo với bác sĩ các thuốc mình đang dùng, đặc biệt là probenecid vì khi dùng cùng lúc hai loại này sẽ làm gia tăng và kéo dài nồng độ cephalosporin trong máu như các kháng sinh phổ rộng khác. Cũng trong quá trình dùng thuốc, người bệnh có thể gặp những tác dụng không mong muốn như buồn nôn, nôn, tiêu chảy, phân sệt, khó tiêu, đau bụng nhưng chỉ là những biểu hiện nhẹ và thoáng qua nên không cần lo lắng mà bỏ dở điều trị. Thuốc cũng có thể gặp phản ứng nguy hiểm hiếm gặp như hoại tử da, viêm da tróc vẩy, mụn mủ ngoài da toàn thân cấp tính... nhưng người bệnh cần chú ý theo dõi để phát hiện triệu chứng và gặp bác sĩ điều trị ngay.
Thuốc chống viêm: Thuốc chống viêm không steroid (ibuprofen, diclofenac...) là loại thường dùng có tác dụng chống viêm, hạ sốt, giảm đau. Tuy nhiên không dùng các thuốc này cho người bị loét dạ dày - tá tràng (vì thuốc có tác dụng phụ gây loét đường tiêu hóa), người bị hen, bệnh chảy máu không được kiểm soát, phụ nữ có thai ba tháng đầu hoặc ba tháng cuối, phụ nữ đang cho con bú...
Thuốc nhỏ tai tại chỗ: Loại thuốc này mang tính kháng sinh và kháng viêm. Thuốc nhỏ tai được chia làm hai loại tùy theo thành phần cơ bản của thuốc là thuốc nhỏ cho những trường hợp viêm tai không thủng màng nhĩ và thuốc dùng cho viêm tai có thủng màng nhĩ. Nếu viêm tai không thủng màng nhĩ đang trong giai đoạn sung huyết dùng thuốc nhỏ tai kết hợp giữa kháng sinh và kháng viêm: cortiphenicol, polydexa... Thuốc nhỏ tai có tính sát khuẩn và giảm đau: cồn boric ấm, otipax... Trường hợp viêm tai có bị thủng màng nhĩ thì dùng những thuốc nhỏ tai được bào chế bằng những kháng sinh có tính an toàn cao cho ốc tai như rifamycin, effexin...
Thuốc nhỏ mũi: Để giúp làm sạch hốc mũi, làm thông thoáng tai giữa và mũi họng giúp cho việc phục hồi niêm mạc viêm trong tai giữa dễ dàng hơn và dẫn lưu dịch mủ từ tai giữa ra ngoài qua đường vòi tai, người bệnh viêm tai xương chũm được chỉ định dùng thuốc nhỏ mũi với tác dụng chính là chống sung huyết, co mạch, giảm phù nề, chống viêm. Thuốc hay sử dụng là sunfarin, collydexa, naphtazoline, xylomethazoline...
Viêm tai xương chũm mạn tính có hai loại là viêm tai xương chũm nguy hiểm và viêm tai xương chũm không nguy hiểm. Loại viêm tai xương chũm mạn tính nguy hiểm điển hình là viêm tai giữa có cholestetoma - là chất ăn mòn xương và có thể vào não gây viêm màng não, áp-xe não - loại này bắt buộc phải phẫu thuật. Với viêm tai xương chũm mạn tính không nguy hiểm có thể điều trị nội khoa và sử dụng thuốc giống như viêm tai xương chũm cấp nếu ở đợt viêm cấp. Còn nếu ở giai đoạn mạn chỉ sử dụng thuốc nhỏ tai đơn thuần. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp cần chú ý người bệnh không tự ý dùng thuốc vì dễ xảy ra những biến chứng nguy hiểm, không hồi phục, nguy hiểm nhất là điếc dẫn đến câm ở trẻ nhỏ.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.