Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Tại sao trẻ em dễ bị dị ứng thực phẩm hơn người lớn

Theo ước tính hàng năm có khoảng 15 triệu người Mỹ bị dị ứng thực phẩm, rất nhiều trong số đó là trẻ em. Đây là mối quan tâm lớn của cộng đồng, do dị ứng hay không dung nạp thực phẩm có thể gây nên các triệu chứng từ ban đỏ trên da cho tới sốc phản vệ nguy hiểm đến tính mạng.

Tin tốt là nhiều trẻ em từng bị ảnh hưởng đã không còn mắc phải dị ứng khi hệ thống miễn dịch của chúng học được cách dung nạp được những thức ăn mà ban đầu coi như “vật thể lạ”.

Một nghiên cứu mới được xuất bản online trên tạp chí Science bởi tiến sỹ Charles Surh thuộc viện nghiên cứu về dị ứng – miễn dịch La Jolla (LJI) đã giải thích tại sao những người bình thường lại hay gặp những vấn đề về dung nạp thực phẩm.

Kết hợp hướng tiếp cận phân tử với mô hình chuột không mang kháng nguyên, đây là nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng việc tiêu thụ một chế độ ăn uống bình thường kích thích các tế bào tại ruột mà ức chế quá trình loại bỏ các phân tử thức ăn bởi hệ miễn dịch. Việc này giải thích lý do tại sao trẻ em, những đối tượng hạn chế tiếp xúc với các loại thực phẩm đa dạng lại dễ bị dị ứng thực phẩm hơn người lớn.

T.S Surh nói: “Hệ miễn dịch có chức năng bảo vệ chúng ta khỏi những yếu tố ngoại lai như virus hay các mầm bệnh, nhưng khi chúng ta tiêu thụ các chất dinh dưỡng, bản thân chúng cũng là các tác nhân từ bên ngoài. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vấn đề dung nạp thực phẩm đạt được và có liên quan đến các tế bào miễn dịch T phát triển trong quá trình chúng ta tiêu thụ thức ăn. Nếu không có các tế bào này, hệ thống miễn dịch của chúng ta sẽ phản ứng mạnh mẽ với các đại phân tử có trong thực phẩm.”

Cũng giống như tác nhân gây bệnh, thực phẩm cũng biểu hiện các marker đại phân tử là các kháng nguyên thông báo cho hệ miễn dịch biết rằng thức ăn là các chất lạ. Phân tích trước đây về vấn đề cơ thể phân biệt giữa các kháng nguyên “thân thiện” với các kháng nguyên “có hại” như thế nào đã chỉ ra rằng khi cho chuột thí nghiệm ăn một loại protein mới, ovalbumin từ trứng kích thích sự phát triển của các tế bào T điều hòa ức chế miễn dịch, hay các tế bào “Treg” tại ruột sau đó sẽ hoạt động để ức chế đáp ứng miễn dịch với loại protein đó. Điều mà các nhà khoa học chưa biết là liệu hiện tượng này có xảy ra trong thực tế cuộc sống hay không khi những con chuột con hay những đứa trẻ ăn một loại thức ăn mới.

Để trả lời câu hỏi đó, Surh đã thiết lập lại mô hình chuột không mang kháng nguyên được thiết kế để tạo ra đối tượng không có đáp ứng miễn dịch ban đầu. Những con chuột này không chỉ được nuôi trong môi trường vô trùng mà còn được cho ăn chế độ bao gồm các acid amin cơ bản – các yếu tố để tạo nên protein, chứ không được cho ăn thực phẩm chứa các protein nguyên vẹn chưa được cắt nhỏ. Những con chuột này có hệ miễn dịch rất kém, do các amino acid cấu thành này quá nhỏ không thể được nhận diện bởi hệ miễn dịch. Những con chuột này không có hay ít tiếp xúc với các protein kháng nguyên và các đại phân tử khác.

Sử dụng việc phân tích các marker phân tử này, Surh và cộng sự thấy rằng những con chuột không mang kháng nguyên này không có các tế bào Treg tại ruột non trong khi các con chuột ăn chế độ chứa protein bình thường lại chứa một số lượng lớn các tế bào Treg. Sự khác biệt đó chứng minh rằng những protein trong thực phẩm đã kích thích sự phát triển của các tế bào Treg. Ngoài ra sự hiện diện của tế bào Treg trong ruột của những con chuột bình thường có thể ức chế những phản ứng miễn dịch đối với các protein trong thực phẩm đó.

Surh nói rằng các con chuột không mang kháng nguyên không phải là mới, chúng chỉ bị lãng quên, do mô hình đầu tiên đã được phát triển cách đây hơn 30 năm để thực hiện các nghiên cứu về dinh dưỡng. “Chúng tôi nuôi dưỡng những con chuột này bởi chúng ta không còn ở trong kỷ nguyên trước đây nữa: chúng ta đã biết nhiều hơn về hệ miễn dịch của con người. Các đây hàng thập kỷ, các nhà khoa học chỉ có thể theo dõi sự thay đổi của số lượng các tế bào lympho nhưng không thể phân biệt giữa các loại tế bào như chúng ta bây giờ.”

Các nhà khoa học đã tận dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ để chứng minh rằng thực phẩm và những vi khuẩn có lợi tại ruột có thể tạo ra các quần thể tế bào Treg riêng biệt. Do vậy, những con chuột nuôi trong môi trường vô trùng chỉ mang những tế bào Treg phụ thuộc vào thực phẩm, chứ không phải những tế bào Treg tạo ra bởi các vi sinh vật có lợi. Điều thú vị là những con chuột nuôi dưỡng vô trùng lại rất dễ bị dị ứng. Do đó, Surh giả thuyết rằng sự có mặt của những tế bào Treg hình thành do cả thực phẩm và các vi sinh vật kích thích là cần thiết để ngăn chặn các triệu chứng dị ứng.

Cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra những hiện tượng xảy ra khi các tế bào miễn dịch thất bại trong việc bỏ qua những kháng nguyên vô hại. Để thực hiện điều đó, họ đã chuyển các tế bào T “báo cáo” được thiết kế cho mục đích thông báo khi một phản ứng miễn dịch xảy ra vào các con chuột không mang kháng nguyên, sau đó cho những con chuột này ăn một loại protein mà chúng chưa bao giờ gặp (ovalbumin). Những con chuột này xảy ra một phản ứng miễn dịch mạnh mà Surh gọi là đáp ứng miễn dịch mặc định với ovalbumin so với những con chuột nuôi vô trùng được cho ăn chế độ bình thường.

Loại phản ứng miễn dịch đối với một loại chất dinh dưỡng này giống với phản ứng miễn dịch kích thích bởi các vi khuẩn có hại. Nhóm của Surh kết luận rằng phản ứng này xảy ra do các con chuột không mang kháng nguyên đã không có sẵn một số lượng lớn các tế bào ức chế miễn dịch Treg với vai trò làm giảm đáp ứng viêm với thực phẩm.

Mở rộng ra, nghiên cứu mới này có thể giải thích tại sao trẻ em, những đối tượng ít tiếp xúc với các đại phân tử chất dinh dưỡng mới khác nhau (thực phẩm) hơn so với người lớn, lại dễ bị dị ứng thực phẩm hơn. Nó cũng giải thích những sự việc diễn ra trên nền tảng tế bào do một số trẻ có thể khỏi được hội chứng này: cụ thể, những tế bào Treg của những đứa trẻ này có thể mở rộng phạm vi nhận diện những loại thực phẩm mới và coi chúng là “an toàn” với cơ thể.

Ngoài vị trí tại viện LJI, Gs.Ts Surh là thành viên của Hiệp hội miễn dịch và vi sinh (AIM) đồng thời là giám đốc viện khoa học cơ bản (IBS) ở Pohang, Hàn Quốc. Ông nói: “Chúng tôi đang tìm hiều chi tiết về phân tử và tế bào của cơ chế đáp ứng miễn dịch mặc định của các tế bào T với thực phẩm được điều hòa như thế nào. Trong hoàn cảnh này, chúng tôi sẽ chú ý đặc biệt tới các loại thực phẩm nhất định, như lạc, trứng và các thực phẩm dễ gây dị ứng khác.”

Bình luận
Tin mới
  • 20/06/2025

    5 loại thực phẩm nên ăn để hỗ trợ giải độc thận

    Để giải độc thận, một chế độ ăn uống thông minh là chìa khóa. Ưu tiên thực phẩm tươi, giảm đồ ăn chế biến sẵn và nước ngọt để bảo vệ 'bộ lọc' quan trọng của cơ thể.

  • 20/06/2025

    Trải nghiệm tiêu cực thời thơ ấu ảnh hưởng đến trẻ khi trưởng thành như thế nào?

    Trải nghiệm tiêu cực thời thơ ấu là những sự kiện tiêu cực xảy ra trong độ tuổi từ 1 đến 17 tuổi. Những trải nghiệm tiêu cực này ảnh hưởng đến não bộ và sức khỏe của trẻ khi chúng lớn lên thành người trưởng thành và gây nên các vấn đề về sức khỏe tâm thần hoặc các bệnh lý mãn tính. Đọc bài viết sau để hiểu thêm về các vấn đề mà trẻ có thể gặp phải lúc trưởng thành khi có các trải nghiệm tiêu cực thời thơ ấu!

  • 19/06/2025

    Cập nhật nghiên cứu về mối liên quan giữa vitamin K2 và nguy cơ thấp còi

    Nói đến phát triển chiều cao, chắc chắc phải nói đến canxi và vitamin D – những thành phần cốt lõi cho sự phát triển và duy trì sức khỏe của xương. Các bằng chứng khoa học gần đây chứng minh rằng, cùng với canxi và vitamin D còn có vai trò vô cùng quan trọng của vitamin K2. Một số nghiên cứu gần đây đã cho thấy vitamin K2 có thể tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng chiều cao của trẻ, đặt ra vấn đề cấp thiết cần cung cấp đủ K2 trong những giai đoạn vàng của sự phát triển ở trẻ nhỏ.

  • 19/06/2025

    Sử dụng D3K2 hiệu quả: Vai trò của công nghệ tiên tiến

    Vitamin D3 và K2 là hai vi chất thiết yếu giúp trẻ phát triển hệ xương chắc khỏe và tăng trưởng chiều cao tối ưu. Tuy nhiên, không phải cứ bổ sung là cơ thể sẽ hấp thu hiệu quả. Thực tế, cả vitamin D3 và K2 đều là vitamin tan trong dầu, và đặc tính này khiến chúng rất khó hấp thu qua đường tiêu hóa, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Việc bổ sung mà không có sự hỗ trợ của công nghệ có thể dẫn đến hấp thu kém, giảm hiệu quả và gây lãng phí.

  • 19/06/2025

    5 loại rau đặc biệt tốt cho gan

    Các bệnh về gan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn cầu. Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của gan.

  • 19/06/2025

    Làm thế nào để trung hòa tác dụng của Caffeine?

    Có thể bạn uống quá liều cà phê hay uống một ly nước tăng lực, bạn gặp dấu hiệu run rẩy, nhịp tim không đều, đau bụng và các tác dụng phụ khác của caffeine. Từ việc uống nước đến ăn chuối, hãy tìm hiểu cách thực sự hiệu quả để trung hòa tác dụng của quá nhiều caffeine.

  • 19/06/2025

    Lựa chọn vitamin D3 K2: Đừng chỉ nhìn vào nhãn, hãy xem kỹ chất lượng nguyên liệu

    Vitamin D3 (cholecalciferol) và vitamin K2 (menaquinone) là hai vi chất dinh dưỡng đóng vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển hóa canxi và phát triển hệ xương. Trong bối cảnh trẻ em có xu hướng giảm đáng kể tiếp xúc với ánh nắng tự nhiên (nguồn tổng hợp chính của vitamin D3) và chế độ ăn uống của trẻ không đảm bảo đủ lượng vitamin K2, việc bổ sung phối hợp hai vi chất này thông qua các sản phẩm bổ sung ngày càng được quan tâm của các chuyên gia dinh dưỡng nhi khoa cũng như các bậc cha mẹ.

  • 18/06/2025

    6 cách ăn uống để hạn chế suy thận ở người trẻ

    Suy thận thường được coi là bệnh của người lớn tuổi nhưng thực tế, các yếu tố nguy cơ và thói quen ăn uống không lành mạnh ở một bộ phận người trẻ có thể âm thầm dẫn đến suy thận.

Xem thêm