Tính an toàn của vắc-xin sởi giảm độc lực
Vấn đề an toàn trong liệu pháp OLV điều trị ung thư được chia thành hai phạm vi: nguy cơ cho bệnh nhân và nguy cơ đối với cộng đồng.
Để giảm nguy cơ cho bệnh nhân, OLV phải có tính lựa chọn các khối u cao, không gây bệnh cho các mô bình thường và ổn định về mặt di truyền.
Để giảm nguy cơ cho cộng đồng, OLV tốt nhất là nguồn gốc từ một loại virut mà cộng đồng có miễn dịch tốt.
MeV sống, giảm độc lực được coi là một trong những loại vắc-xin an toàn nhất. Trong 50 năm qua, vắc-xin MeV đã được tiêm cho hơn 1 tỷ người theo Chương trình tiêm chủng mở rộng và độ an toàn cao thật sự đáng ghi nhận. Từ năm 1978 đến năm 2010, khoảng 575 triệu liều MeV sống, giảm độc lực được tiêm chủng và có 17.536 trường hợp không tốt đã được báo cáo, chỉ có 4.822 trường hợp được coi là nghiêm trọng, nguy cơ liên quan của 1 trường hợp nghiêm trọng như vậy là 8,4 ca/1 triệu liều phân phối. Cũng không có bằng chứng cho thấy MeV sống, giảm độc lực gây bệnh phải thu hồi.
Nghiên cứu vắc-xin tại Trung tâm Nghiên cứu sản xuất vắc-xin và Sinh phẩm Bộ Y tế.
MeV nhạy cảm với nhiều loại ung thư
Hiệu ứng phá hủy tế bào của MeV được đặc trưng bởi sự hợp bào, do sự tương tác giữa hemagglutinin và protein kết hợp từ các tế bào bị nhiễm virut với các tế bào lân cận. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh khả năng ly giải tế bào của MeV đối với nhiều dòng tế bào ung thư người như: u tủy, ung thư tuyến tụy, u thần kinh đệm, ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú, u tế bào hắc tố da, ung thư tế bào biểu mô thận, u trung biểu mô, u nguyên bào tủy, u phổi và ung thư đại tràng…
Gần đây, các nhà khoa học của Học viện Quân y và Đại học Quốc gia Singapore đã chứng minh hiệu quả kháng ung thư của MeV với ung thư tế bào máu ngoại vi người, đặc biệt là ung thư bạch cầu tủy cấp cả trên nuôi cấy tế bào và trên chuột thiếu hụt miễn dịch mang khối ung thư bạch cầu tủy cấp hoặc ung thư tuyến tiền liệt người khi dùng đơn lẻ hoặc phối hợp với virut vắc-xin quai bị. Trong 10 năm qua, nghiên cứu tác dụng kháng ung thư của MeV đã được chứng minh trên ít nhất là 12 loại tế bào ung thư khác nhau.
Kết hợp liệu pháp OLV với thuốc ức chế miễn dịch
Kết hợp liệu pháp OLV với thuốc ức chế miễn dịch nhằm mục đích dễ dàng gây nhiễm virut vào khối ung thư đang phát triển trong cơ thể sống có một hệ miễn dịch nguyên vẹn nhằm nâng cao hiệu lực điều trị của liệu pháp OLV.
Cyclophosphamide được biết là một thuốc ức chế miễn dịch có độc tính cao với sự sinh sản tế bào lympho, nó có thể điều chỉnh cả hai phản ứng miễn dịch tự nhiên và thích ứng.
Đáp ứng với liều và thời gian phân bố cyclophosphamide với từng loại kháng nguyên tế bào là khác nhau, phản ứng ngăn chặn các tế bào lympho B và T rõ rệt nhất khi cyclophosphamide được dùng cùng một lúc hoặc không quá 3 ngày sau kích thích bằng kháng nguyên, đặc biệt cyclophosphamide có hiệu quả tốt khi sử dụng liều cao trước 1 hoặc 2 ngày khi cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên.
Phát triển các thử nghiệm lâm sàng
Hiện có 14 thử nghiệm lâm sàng điều trị ung thư giai đoạn I và giai đoạn II của liệu pháp OLV sử dụng MeV đã và đang được tiến hành trên thế giới. Các nghiên cứu chủ yếu tiến hành tại Trung tâm Nghiên cứu, điều trị ung thư - Mayo Clinic, Hoa Kỳ. Các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân ung thư buồng trứng, ung thư trung biểu mô màng phổi, đa u tủy, u lympho…
Các thử nghiệm lâm sàng sử dụng đường tiêm MeV trực tiếp vào khối u điều trị ung thư hạch, truyền màng bụng virut sởi biến đổi gen (MeV-NIS) trong điều trị ung thư buồng trứng, tiêm vào màng phổi điều trị ung thư trung biểu mô màng phổi hoặc tiêm MeV vào sọ não điều trị ung thư não hoặc tiêm tĩnh mạch MeV kết hợp thuốc ức chế miễn dịch cyclophosphamide trong điều trị đa u tủy... cho kết quả khả quan, kéo dài thời gian sống và không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được ghi nhận.
Tóm lại, liệu pháp OLV sử dụng MeV sống, giảm độc lực hoặc MeV biến đổi gene là một chiến lược điều trị ung thư có tiềm năng. Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng vẫn còn ở giai đoạn đầu và hiệu quả bị giới hạn bởi khả năng miễn dịch chống virut sởi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy MeV nhạy cảm với nhiều loại tế bào ung thư, sự an toàn cao và tiến bộ trong công nghệ sinh học làm cho MeV trở thành một ứng cử viên rất tốt cho phát triển chiến lược điều trị ung thư hiện nay.
Có rất nhiều loại bệnh võng mạc khác nhau. Những bệnh này có thể do gen di truyền từ cha mẹ hoặc từ tổn thương võng mạc tích lũy trong suốt cuộc đời. Một số loại bệnh võng mạc phổ biến hơn các bệnh khác.
Chuối là một trong những loại thực phẩm có lợi ích dinh dưỡng đáng kể. Vậy khi ăn chuối luộc có tác dụng gì?
Nhiễm ký sinh trùng có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khỏe như các triệu chứng về tiêu hóa không rõ nguyên nhân, ngứa, thiếu máu, đau cơ và khớp, ăn không thấy no,… Cùng tìm hiểu về 10 dấu hiệu cho thấy có thể bạn đang nhiễm ký sinh trùng qua bài viết sau đây!
Nước dừa có thành phần dinh dưỡng đặc biệt và nhiều lợi ích cho sức khỏe như cung cấp chất điện giải, giúp hạ huyết áp... Đây là lý do nước dừa ngày càng trở thành lựa chọn phổ biến của nhiều người.
Dù là trà đen, trà xanh, trà trắng hay trà ô long, trà nóng hay trà đá đều có nguồn gốc từ cây trà, Camellia sinensis. Nhưng trà thảo mộc thì khác. Trà thảo mộc bắt nguồn từ việc ngâm nhiều loại hoa, lá hoặc gia vị trong nước nóng. Hầu hết các loại trà này đều không có caffeine. Bạn có thể bắt đầu bằng những túi trà làm sẵn hoặc ngâm các nguyên liệu rời và sau đó lọc bỏ bã.
Nhiều người thực hiện thải độc cơ thể theo hướng dẫn truyền miệng và trên các nền tảng xã hội... và hiện nay đang dấy lên trào lưu thải độc bằng nước cốt chanh. Vậy sự thật về phương pháp thải độc này như thế nào?
Dầu dừa là một chất dưỡng ẩm tự nhiên. Nhiều người bị chàm nhận thấy dầu dừa có tác dụng làm dịu da và giảm các triệu chứng như khô và ngứa.
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.