Những ca phẫu thuật đầu tiên
Phẫu thuật thẩm mỹ bắt nguồn một phần từ việc chỉnh sửa những biến dạng do bệnh giang mai và chỉnh sửa theo những quan điểm mang tính sắc tộc về sức khỏe và đặc điểm khuôn mặt có thể chấp nhận cũng như quan điểm mang tính thẩm mỹ đơn thuần ví dụ về tính đối xứng.
Trong nghiên cứu về mối liên quan giữa vẻ đẹp với sự kỳ thị và thiên vị xã hội, nhà xã hội học Bonnie Berry ước tính rằng 50% người Mỹ không hạnh phúc với vẻ ngoài của họ. Berry liên kết tỷ lệ này với hình ảnh truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, con người đã phải trải qua những phương pháp phẫu thuật đau đớn để chỉnh sửa lại các đặc điểm trên khuôn mặt và những bộ phận cơ thể rất lâu trước khi có sự phát triển như hiện nay, thậm chí, trước khi sử dụng thuốc gây mê và tìm ra các nguyên tắc khử trùng.
Một số phẫu thuật được ghi chép đầu tiên diễn ra vào thế kỷ 16 ở Anh và châu Âu. Các nhà phẫu thuật vương triều Tudo đã điều trị cho những tổn thương mặt mà theo quan điểm của nền văn hóa đó là phản ánh cho sự “méo mó” của tâm hồn. Nhưng những đau đớn và nguy cơ ảnh hưởng tới tính mạng vốn có trong bất cứ loại phẫu thuật nào vào thời điểm đó, phẫu thuật thẩm mỹ thường bị hạn chế chỉ dùng cho các trường hợp các biến dạng nặng và bị kỳ thị như mất mũi sau tai nạn hoặc bệnh giang mai.
Ghép vạt có cuống đầu tiên để tạo hình mũi mới được thực hiện ở châu Âu thế kỷ thứ 16. Một phần da sẽ được cắt ra từ trán, gập xuống và khâu hoặc nó sẽ được lấy từ cánh tay của bệnh nhân. Thủ thuật này sau đó được công bố trên tờ Iconografia d’anatomia xuất bản năm 1841 chỉ ra rằng bệnh nhân với cánh tay vẫn dính lên khuôn mặt anh ta trong giai đoạn liền ghép.
Khi những “méo mó” xã hội như những biến dạng trên khuôn mặt không còn hi vọng cứu chữa, phẫu thuật thẩm mỹ đơn thuần chưa phổ biến cho đến khi nó trở nên không quá đau và đe dọa sự sống.
Năm 1846, ca phẫu thuật được mô tả là phẫu thuật đầu tiên không đau được thực hiện bởi nha sĩ người Mỹ William Morton, người đã gây mê cho bệnh nhân. Gây mê được thực hiện qua đường hô hấp thông qua một chiếc khăn tay hay ống thổi. Tuy nhiên, cả hai cách này đều không đúng có thể khiến bệnh nhân bị quá liều hoặc tử vong.
Việc loại bỏ cản trở chính thứ 2 cho phẫu thuật thẩm mỹ xuất hiện vào những năm 1860. Với mô hình vô trùng của bác sĩ người Anh, phẫu thuật được thực hiện ở Pháp, Đức, Úc và Italia làm giảm nguy cơ nhiễm trùng và tử vong.
Tới những năm 1880, với sự tinh tế hơn của gây mê, phẫu thuật thẩm mỹ trở nên tương đối an toàn và hứa hẹn không đau cho những người khỏe mạnh cảm thấy mình kém hấp dẫn.
Những quảng cáo hiếm hoi
Năm 1901, Công ty Derma Featural quảng cáo có thể khắc phục được mũi tẹt, xấu, tai vểnh, nếp nhăn trên tạp chí World of Dress
Phương pháp của họ ít thẩm mỹ. Một báo cáo từ một trường hợp năm 1908 liên quan tới công ty này chỉ ra rằng họ tiếp tục sử dụng da từ và gắn với cánh tay để chỉnh hình mũi.
Tệ hơn nữa, báo cáo này cũng đề cập đến một phương pháp chỉnh hình dùng sáp paraffin không phẫu thuật, trong đó sáp nóng, lỏng được tiêm vào mũi của bệnh nhân và sau đó được các nhà phẫu thuật tạo hình theo ý muốn. (Sáp này có thể di chuyển đến các bộ phận khác của khuôn mặt gây biến dạng hoặc u hoặc ung thư do sáp).
Những quảng cáo kiểu như của Công ty Derma-Featural thực sự khá hiếm trên những tạp chí dành cho phụ nữ trong khoảng thế kỷ 20. Nhưng thường có những quảng cáo về các thiết bị không có thật hứa hẹn mang đến những thay đổi ấn tượng trên khuôn mặt và cơ thể, có thể được trông đợi chỉ từ can thiệp phẫu thuật. Các mẫu dây đeo khác nhau ở cằm và trán như thương hiệu Ganesh quảng cáo là phương tiện loại bỏ cằm đôi và các nếp nhăn quanh mắt.
Máy thu nhỏ ngực và hông, dạ dày như JZ Hygienic Beauty Belt cũng hứa hẹn những cách không phẫu thuật để thay đổi hình dáng cơ thể.
Tần suất của những quảng cáo này trên các tạp chí phổ biến chỉ ra rằng việc sử dụng những thiết bị này được xã hội chấp nhận. Bằng cách so sánh, các mỹ phẩm có màu như phấn hồng, chì kẻ mắt kohl hiếm khi được quảng cáo.
Những quảng cáo về phấn thường nhấn mạnh vẻ tự nhiên của sản phẩm để tránh bất cứ mối liên quan tiêu cực nào giữa mỹ phẩm và kỹ xảo.
Phẫu thuật thẩm mỹ phổ biến nhất được yêu cầu trước thế kỷ 20 nhằm vào chỉnh sửa các đặc điểm như tai, mũi, ngực được cho là xấu vì chúng không phải là đặc trưng của người da trắng. Vào thời điểm này, khoa học về chủng tộc quan tâm tới cải thiện chủng tộc da trắng. Ở Mỹ, với sự phát triển gia tăng của người nhập cư Do Thái và Ailen và người Mỹ gốc Phi, mũi hếch, mũi lớn và mũi tẹt là dấu hiệu của sự khác biệt chủng tộc và do đó là bị coi là xấu xí.
Phát minh của bác sĩ tai họng người Mỹ John Orlando Roe’s về phương pháp thực hiện chỉnh hình bên trong mũi mà không để lại sẹo bên ngoài là phương pháp chủ yếu trong những năm 1880. Việc phẫu thuật của bệnh nhân sẽ không bị phát hiện. Kỹ thuật này vẫn tồn tại đến ngày hôm nay.
Tiêu chuẩn sắc đẹp thay đổi theo thời gian
Năm 2015, có tới 627.165 phụ nữ Mỹ hay cứ 250 người có 1 người phẫu thuật ngực. Nhưng khác biệt là trong những năm đầu của phẫu thuật thẩm mỹ, ngực không bao giờ được làm cho to lên. Ngực cũng đóng vai trò như một “dấu hiệu sắc tộc”. Ngực nhỏ và tròn được coi là trẻ trung và gợi cảm. Ngực lớn và chảy xệ được coi là cổ xưa và do vậy là khác thường.
Vào đầu thế kỷ 20, phẫu thuật giảm kích cỡ ngực là phổ biến. Mãi cho đến những năm 1950, những bộ ngực nhỏ trở thành vấn đề y học và khiến phụ nữ không hạnh phúc. Và sự chuyển đổi này chứng minh rằng tiêu chuẩn về cái đẹp thay đổi theo thời gian và không gian. Vẻ đẹp vốn được coi là Chúa ban cho, là tự nhiên hay mang dấu hiệu của sức khỏe hoặc đặc điểm tốt của một người.
Khi người ta hiểu ra rằng vẻ ngoài của mỗi người là có thể thay đổi, nhiều phụ nữ đã cố gắng cải thiện vẻ ngoài qua các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp và theo thời gian là phẫu thuật.
Như nhà sử học Elizabeth Haiken nhấn mạnh trong Venus Envy, năm 1921 không chỉ đánh dấu cuộc hội thảo đầu tiên của hội các nhà phẫu thuật chỉnh hình Mỹ mà còn là năm đầu tiên cuộc thi Miss America được tổ chức tại thành phố Anlantic.
Tất cả những người vào chung kết đều là người da trắng. Người chiến thắng, Margaret Gorman, 16 tuổi có chiều cao 1,55m thấp hơn nhiều so với những người đẹp các hoa hậu hiện nay và số đo vòng ngực cũng nhỏ hơn số đo vòng hông. Rõ ràng có sự thay đổi trong quan niệm về sắc tộc, sức khỏe, độ nữ tính và tuổi tác và có mối liên quan chặt chẽ giữa các xu hướng phẫu thuật thẩm mỹ và những đặc trưng mà chúng ta đánh giá như một nền văn hóa.
Năm ngoái là năm kỷ niệm 100 năm ra đời của phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại. TS Harold Gillies đã thành người tiên phong khi phát minh ra ghép vạt có cuống trong Chiến tranh thế giới thứ nhất để tái tạo lại khuôn mặt cho những người lính bị thương.
Nghề giáo là một trong những nghề cao quý, đòi hỏi sự tận tâm và năng lượng lớn. Tuy nhiên, với áp lực công việc, lịch trình bận rộn và yêu cầu không ngừng đổi mới, giáo viên thường đối mặt với nguy cơ kiệt sức về cả thể chất lẫn tinh thần.
Thịt lợn ba chỉ cung cấp protein và vitamin nhóm B nhưng cũng chứa nhiều chất béo. Tìm hiểu lợi ích dinh dưỡng và cách ăn hợp lý để bảo vệ sức khỏe.
Khám sức khỏe định kỳ không chỉ là một hoạt động y tế mà còn là cách mỗi người thể hiện sự quan tâm đến bản thân và gia đình. Trong cuộc sống hiện đại, khi nhịp sống ngày càng hối hả, nhiều người thường bỏ qua việc kiểm tra sức khỏe đều đặn, chỉ tìm đến bác sĩ khi xuất hiện triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, việc duy trì thói quen khám sức khỏe định kỳ có thể giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe, từ đó tăng cơ hội điều trị thành công và giảm thiểu chi phí y tế. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ làm rõ vai trò của khám sức khỏe định kỳ và những lợi ích thiết thực mà nó mang lại.
Sức khỏe sinh sản nữ giới có vai trò rất quan trọng đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn chưa chú trọng chăm sóc sức khỏe sinh sản, dẫn đến hơn 70% trong số họ mắc các bệnh phụ khoa từ nhẹ đến nặng. Vì vậy, việc nhận biết sớm dấu hiệu bất thường, khám phụ khoa định kỳ và phòng ngừa là rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe sinh sản.
Canxi là khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong nhiều chức năng sống của cơ thể, không chỉ riêng hệ xương. Tuy nhiên không phải cứ ăn thực phẩm giàu canxi là đủ, chúng ta cần biết cách để cơ thể hấp thụ canxi tốt nhất.
Run là những chuyển động không tự chủ, nhanh, liên tục, qua lại, ở một phần hoặc toàn bộ cơ thể. Một số bệnh lý thần kinh, một số loại thuốc và tình trạng lo âu thường gây ra run.
Cá hồi là nguồn cung cấp dồi dào acid béo omega-3, một chất dinh dưỡng đặc biệt có lợi cho sức khỏe con người. Nên ăn cá hồi như thế nào và ăn vào thời điểm nào để tận dụng tối đa lợi ích của omega-3?
Cha mẹ và người chăm sóc thường muốn nhận biết các dấu hiệu của chứng tự kỷ để có thể nhận ra khi cần. Chứng tự kỷ không ảnh hưởng đến ngoại hình của trẻ, do đó việc chẩn đoán phụ thuộc vào việc xác định những thay đổi trong hành vi hoặc các mốc phát triển của trẻ, chẳng hạn như chậm phát triển ngôn ngữ và thoái triển các mốc phát triển.