Cao lá bạch quả (Ginkgo biloba) được chuẩn hóa chứa 24% flavonoid, 6% ginkgolid biloba (diterpen lacton) và không quá 5 phần triệu axít ginkgolic (viết tắt là EGB).
Nhìn lại dược tính, ứng dụng lâm sàng của EGB
EGB làm tăng chức năng tuần hoàn não, tăng tính chịu đựng của mô não khi thiếu oxy, chống oxy hóa gốc tự do, ổn định màng tế bào nên được coi như là chất bảo vệ thần kinh.
EGB còn có yếu tố ngăn cản kích hoạt tiểu cầu nên có tính chống đông máu. Ngoài ra, EGB còn làm thư giãn nội mô gan qua sự ngăn chặn 3-cyclo GMP (guanosid monophosphat), ngăn chặn bớt mật độ nhạy cảm của thụ thể cholin, thụ thể gây tiết epinephrin, kích thích sự hấp thụ cholin ở chân hải mã (hypocampus). EGB cũng ngăn cản việc kết tụ mảng amyloid (nguyên nhân gây bệnh Alzheimer).
Hiệu năng của EGB đã được chứng minh trên các thử nghiệm có đối chứng với giả dược ở người bị thiểu năng tuần hoàn não, bị suy giảm chức năng tuần hoàn chung, bị suy mạch máu ngoại vi, rối loạn thính giác.
Do thế, EGB được dùng trong các trường hợp: điều trị thiểu năng tuần hoàn não (với các biểu hiện chính ù tai, chóng mặt, giảm thị lực…); điều trị thiểu năng tuần hoàn não khi chưa xảy ra tai biến mạch máu não nhằm dự phòng từ xa và sau khi đã xảy ra tai biến mạch máu não nhằm dự phòng tái phát tai biến này. Điều trị các triệu chứng đau (do suy tuần hoàn ngoại vi như: đau thắt khi đi ngoài, rối loạn dinh dưỡng), triệu chứng khập khễnh cách hồi, hội chứng Raynaud, chứng nhược dương (phối hợp với papaverin).
- Mặc dù EGB có tính năng ngăn chặn mảng amyloid nhưng EGB không có lợi ích lâm sàng với người người bị bệnh Alzheimer hay sa sút trí tuệ tuổi già do đó thế không dùng EGB cho người Alzheimer nặng (lú lẫn), cũng rất ít khi dùng trong trường hợp Alzheimer nhẹ.
- Trong điều trị chứng khập khễnh cách hồi, tuy EGB có hiệu quả nhưng thấp chỉ có thể có được khi dùng với liều khá cao (240mg/ngày).
- Trong chứng ù tai thấp, EGB hầu như chỉ có hiệu quả với người mới bị ù tai nhẹ do vận mạch.
Nhận biết các tác dụng không mong muốn và khuyến cáo
Các nghiên cứu lâm sàng cũng ghi nhận EGB có các tác dụng không mong muốn: gây nhức đầu, bồn chồn, buồn nôn, tiêu chảy; làm tăng nguy cơ chảy máu (do có yếu tố ngăn cản sự kích hoạt tiểu cầu chống đông máu). Một số trường hợp cá biệt có thể gặp biến chứng nghiêm trọng như: xuất huyết dưới màng cứng, xuất huyết dưới nhện, xuất huyết trong não, xuất huyết tiền phòng mắt (chưa rõ lý do). Chưa có tài liệu nào chứng minh tính an toàn của EGB ở người mang thai.
Theo đó, các nhà nghiên cứu lâm sàng đưa ra một số khuyến cáo:
- Không dùng EGB cho người có rối loạn đông máu. Không nên dùng chung EGB với các thuốc chống đông máu (warparin, heparin) hay các thuốc ngăn ngừa sự tập kết tiểu cầu (aspirin, dipiridanol, ticlopidin),với dược thảo đặc biệt có có chứa coumarin (fefeverfew, tỏi, sâm, clover đỏ) vì các phối hợp này sẽ tăng tính chống đông máu của EGB và các chất các thảo dược chống đông khác, làm tăng sự chảy máu.
- Nên ngừng dùng EGB trong 36 giờ hay tốt nhất là 14 ngày trước khi phẫu thuật (nhằm tránh nguy cơ tăng chảy máu).
- Không dùng chung EGB với thuốc chống động kinh như: carbamazepin, valproic axít vì EGB làm giảm hiệu lực thuốc chống động kinh.
- Tai biến mạch máu não có hai loại, một loại là chảy máu não do vỡ mạch, một loại là nhũn não do huyết khối làm tắc nghẽn mạch. EGB được chọn dùng trong trường hợp tai biến mạch máu não loại nhũn não mà không dùng trong trường hợp tai biến mạch máu não do chảy máu não (do EGB làm tăng tính chảy máu).
- Không nên dùng chung EGB với tradone vì có thể bị hôn mê (mới gặp một số trường hợp nhưng chưa giải thích được lý do).
- Không nên dùng cho người có thai vì chưa chứng minh được tính an toàn.
Người xưa dùng lá Ginkgo biloba có hiệu quả, an toàn. Do đó khi chiết ra EGB người ta tin cậy hoàn toàn vào kinh nghiệm đó. Các tài liệu trước đây ghi nhiều công dụng, không ghi tác dụng không mong muốn nào.
Ngày nay, những nghiên cứu dược tính ứng dụng lâm sàng cho thấy EGB chỉ thực sự có công dụng trong một số trường hợp nhất định, đồng thời cũng chỉ ra những tác dụng không mong muốn mà trước đây chưa đề cập đến. Biết thêm những điều này để dùng EGB cho hợp lý.
Gần đây, trên mạng xã hội lan truyền thông tin cho rằng dùng quá nhiều thực phẩm bổ sung và thực phẩm tăng cường acid folic có thể gây độc, thậm chí dẫn đến ung thư. Thực hư thông tin này ra sao?
Người lớn và trẻ em bị dị ứng đường hô hấp, chẳng hạn như viêm mũi dị ứng (viêm đường mũi sau khi tiếp xúc với chất gây dị ứng), có nguy cơ cao bị chảy máu cam.
Đốm đồi mồi là những vết sẫm màu, phẳng do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thường xuất hiện trên mặt, tay và các vùng da hở khác. Hãy trao đổi với bác sĩ chuyên khoa da liễu trước khi sử dụng các biện pháp khắc phục tự nhiên.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.