Khi bị các triệu chứng sưng đau các khớp, người bệnh nên đến các cơ sở khám chữa bệnh để được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Việc dùng thuốc cần tuân theo chỉ định của bác sĩ để tránh những tai biến có thể xảy ra.
Viêm khớp là cách nói chung để chỉ tình trạng có viêm và sưng đau ở các khớp. Trong chuyên môn, các thầy thuốc còn phân ra nhiều bệnh lý liên quan đến viêm khớp như viêm sưng khớp, viêm khớp dạng thấp, viêm khớp do gút, viêm khớp do nhiễm khuẩn, bệnh khớp thoái hóa... với các triệu chứng chung là sưng, nóng, đỏ, đau.
Bệnh rất hay gặp ở người có tuổi với biểu hiện đau đớn ở các khớp khi cử động, các khớp sưng đau, phình to khiến người bệnh rất khó chịu, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống. Các nhóm thuốc hay dùng:
Thuốc kháng viêm không steroid (NSAID):
Đây là nhóm thuốc đầu tay rất hay được sử dụng với khá nhiều tên thuốc. Điển hình là aspirin, diclofenac, ibuprofen, indometacin, ketoprofen, naproxen... Các thuốc này được sử dụng trong điều trị viêm khớp để giảm sưng và đau ở các khớp bị viêm do ức chế prostaglandin.
Đây là các thuốc có tác dụng tốt nhưng cũng có rất nhiều tác dụng phụ (ADR) như gây ù tai, kích ứng dạ dày và gây loét. Vì vậy, cần tuân theo hướng dẫn về cách dùng đối với từng thuốc cụ thể và không sử dụng cho những người bị nguy cơ cao như thường xuyên bị rối loạn tiêu hóa, đã bị loét hoặc viêm dạ dày - tá tràng, những người bị hen suyễn, bị bệnh thận...
Các thuốc giảm đau, hạ sốt, không gây nghiện cũng hay được dùng, điển hình là paracetamol (còn có tên khác là acetaminophen) chỉ có tác dụng giảm đau chứ không kháng viêm, hay nimesulide dùng trong đau, viêm và cứng khớp.
Các thuốc ức chế chọn lọc COX-2:
Điển hình trong nhóm này là celecoxib, etoricoxib, parecoxib... thường dùng trong các bệnh rối loạn cơ xương khớp. Thường dùng khi các NSAID nói trên có nguy cơ cao gây viêm loét đường tiêu hóa ở các bệnh nhân đã lạm dụng hoặc dùng rất nhiều lần các NSAID mà bệnh không đỡ. Các bệnh nhân viêm khớp mà lại có nguy cơ tim mạch cũng được ưu tiên chọn nhóm này.
Phối hợp các NSAID và thuốc giảm đau:
Hay dùng là paracetamol và ibuprofen để có tác dụng hiệp đồng giúp giảm đau nhanh hơn trong bệnh viêm khớp.
Các thuốc tác động lên hệ cơ xương:
Hay dùng là glucosamin và chondroitin. Thuốc thường được dùng trong điều trị viêm khớp gối. Các chất này có trong một số loại hải sản nên những người dị ứng với hải sản không nên dùng.
Các thuốc ức chế miễn dịch dùng trong viêm khớp:
Hay dùng là các abatacept, leflunomide, tocilizumab, rituximab phối hợp với methotrexate để làm giảm đau khớp, làm chậm tiến triển của bệnh, làm chậm phá hủy khớp nên phải dùng từ giai đoạn đầu của viêm khớp dạng thấp.
Các salicylate dùng tại chỗ:
Thường kết hợp với menthol, eucaliptol, camphor dưới dạng kem xoa bóp tại chỗ trong trường hợp viêm đau sưng nhẹ.
Các thuốc giảm đau gây nghiện:
Chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết như codein, tramadol, fentanyl, morphin...
Các corticosteroid:
Hay dùng là betamethasone, dexamethasone, hydrocortisone, mazipredone, metylprednisolon, prednisolon, prednisone, triamcinolone chỉ dùng ngắn hạn theo từng đợt trong các đợt viêm cấp nhiều khớp.
Thuốc điều trị gút:
Gút là một loại viêm khớp gây đau đớn nhiều cho bệnh nhân. Khi bị gút cấp, thuốc thường dùng là colchicine.
Tóm lại, việc dùng các thuốc nói trên cần tuân theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, không tự ý dùng, không dùng quá liều được cho. Tất cả các thuốc dùng trong viêm khớp đều có rất nhiều phản ứng không mong muốn, vì vậy nếu không tuân thủ nguyên tắc điều trị người bệnh sẽ có nguy cơ mắc các bệnh khác, thậm chí còn nguy hiểm hơn tình trạng viêm đau khớp như bệnh viêm loét hoặc thủng dạ dày - tá tràng, bệnh rối loạn chuyển hóa do lạm dụng corticosteroid...
Người bị viêm khớp nên chú ý đến tập luyện các bài tập vận động từ nhẹ đến mức cơ thể chịu đựng được để duy trì sự linh hoạt của các khớp. Có thể áp dụng vật lý liệu pháp bằng chườm nóng hoặc chườm lạnh. Cần có chế độ ăn cân bằng để tránh bị tăng acid uric, uống nhiều nước để đào thải các chất độc ra khỏi cơ thể. Bệnh nhân tăng huyết áp bị viêm khớp cần thận trọng khi dùng các NSAID.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.
Mùa thu là thời điểm cơ thể dễ phải đối mặt với nhiều thách thức do sự thay đổi của thời tiết và môi trường. Vậy, mùa thu nên bổ sung những loại vitamin nào?
Da đầu ngứa có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm thói quen gội đầu, chấy, bệnh vẩy nến, v.v.