Trong cơ thể đôi lúc xảy ra hiện tượng “huynh đệ tương tàn” giữa các thành phần vốn rất mật thiết với nhau. Y học gọi là bệnh tự miễn dịch (bệnh tự miễn). Đây là một chủ đề đang được nghiên cứu mạnh mẽ nhất về y học. Số người mắc bệnh cũng đang gia tăng rất rõ.
Nhận diện
Nếu bạn nghĩ bệnh tự miễn dịch là chứng bệnh gì đó thật mơ hồ và chưa chắc sẽ đến lượt ta thì cần suy nghĩ lại. Những chứng bệnh hiện rất phổ biến như đường ruột, viêm màng nhầy tử cung, mệt mỏi kinh niên, chứng u xơ, đau cơ... chính là dấu hiệu cơ thể đang rơi vào tình cảnh của một “gia đình bất hòa”. Ở các nước phương Tây, bệnh tự miễn chiếm tần suất 1/5 và đã có đủ cơ sở để khẳng định người bệnh là phụ nữ đang chiếm tỉ lệ tới 79%.
Bệnh tự miễn xảy ra khi hệ miễn dịch của cơ thể quay trở lại tấn công vào các mô của cơ thể. Tự miễn khác xa dị ứng. Trong dị ứng, hệ miễn dịch của cơ thể tấn công vào những phần tử lạ xâm nhập cơ thể (ví dụ phấn hoa, bụi bặm...), còn tự miễn thì hậu quả sẽ là sự hủy diệt các mô, tế bào của chính cơ thể mà hệ miễn dịch đã tấn công vào dẫn đến gây ra trên 80 tình trạng bệnh khác nhau. Tự miễn có thể tác động vào nhiều mô cùng một lúc hoặc chỉ tác động vào từng cơ quan riêng lẻ.
Các nhà y học đã mạnh mẽ lên tiếng rằng chính môi trường sống hiện đại là thủ phạm “đâm bị thóc, thọc bị gạo”. Ngoài ra cũng cần phải kể đến yếu tố di truyền. Bạn sẽ có khả năng cao bị bệnh tự miễn nếu người thân của bạn từng mắc, dù không nhất thiết sẽ có cùng chung một tình trạng bệnh.
Năm nguyên nhân
Y học hiện đại đã “chỉ mặt điểm tên” những thủ phạm gây ra quá trình tự miễn. Cụ thể:
- Thiếu hụt vitamin D: Vitamin D là một “biên tập viên” của hệ miễn dịch, hỗ trợ hệ miễn dịch chống lại ung thư, ngăn ngừa sự nhóm họp của những thành phần chống lại hệ miễn dịch. Vitamin D được cơ thể tổng hợp nhờ vào ánh sáng mặt trời. Đó cũng là lý do vì sao những quốc gia ở vĩ độ cao như Canada và New Zealand lại có tần suất người mắc bệnh tự miễn cao nhất thế giới. Để chắc ăn rằng không bị thiếu vitamin D, khi đi kiểm tra sức khỏe, bạn cần lưu ý lượng vitamin D có trong máu phải đạt ở con số 100-150 pg/ml.
- Sự nhiễm trùng: Nhiễm trùng sẽ làm ngòi nổ cho một số bệnh tự miễn (chẳng hạn như sốt thấp khớp, viêm cột sống...). Trong sự viêm nhiễm, các tế bào của chính cơ thể lại na ná như vi trùng, vì vậy hệ miễn dịch vô tình rơi vào tình trạng “khôn nhà dại chợ” vì thay vì đánh vi trùng thì lại đi tiêu diệt “người nhà”.
- Xáo trộn vi khuẩn đường ruột: Có hàng tỉ tỉ vi khuẩn sống ở trong ruột có vai trò điều hòa hệ miễn dịch. Trong vài thập kỷ gần đây, màng nhầy ruột của chúng ta la làng vì việc sử dụng kháng sinh bừa bãi và sử dụng thuốc ngừa thai vô tội vạ. Sự mất cân bằng của hệ vi sinh đường ruột sẽ dẫn đến các chứng tự miễn và các rối loạn miễn dịch. Phong trào làm ốm cũng là kẻ tòng phạm.
- Hội chứng rò ruột: Một khi hệ vi khuẩn đường ruột bị xáo trộn, sự tiêu hóa sẽ trở nên kém hiệu quả, màng nhầy ruột sẽ bị tổn hại. Hàng rào phân cách ruột và máu bị hóa giải. Các phần tử thức ăn sẽ thừa cơ hội từ ruột ngao du vào máu và tạo gánh nặng cho hệ miễn dịch làm cho hệ miễn dịch “nổi quạu”, dẫn đến sự tự miễn.
- Ô nhiễm môi trường: Bệnh tự miễn, nhất là bệnh lupus, sẽ nghiêm trọng hơn khi môi trường sống bị ô nhiễm. “Tội phạm” môi trường nổi danh nhất là thủy ngân, thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm tóc, bao ni lông... Những hóa chất này gây tổn hại một cách trực tiếp lên hệ miễn dịch. Bệnh tự miễn xảy ra trong trường hợp này là do các mô của cơ thể bị tổn hại và bị biến đổi đến nỗi hệ miễn dịch “nhìn không ra”.
Nơi đáng thương nhất chính là tuyến giáp vì chúng phải hứng chịu độc chất môi trường nhiều nhất, từ đó gây nên những rối loạn về tuyến giáp. Hiện có khoảng 30.000 hóa chất độc hại đang được sử dụng và chưa bao giờ được thử nghiệm xem tác hại như thế nào, nếu sử dụng lâu dài.
Vì sao nữ dễ mắc bệnh tự miễn?
Một trong những nguyên nhân quan trọng là do hệ miễn dịch của phụ nữ thay đổi trong thời gian mang thai.
Cụ thể là trong thai kỳ, những tế bào phôi thai có thể di cư vào cơ thể mẹ và bám trụ ở đó hàng thập kỷ, giúp cơ thể người mẹ kháng một số bệnh tật nhưng vô tình cũng làm cơ thể mẹ mắc chứng tự miễn.
Bên cạnh đó, phụ nữ cũng dễ bị rủi ro từ hormone giới tính oestrogen. Những loại thuốc oestrogen tổng hợp (như thuốc tránh thai) cũng làm gia tăng khả năng tự miễn.
Mùa thu mang đến cảm giác mát mẻ và hương vị ngọt ngào của nhiều loại quả chín mọng. Có một số loại quả mùa thu rất tốt cho người bị táo bón vì chúng chứa nhiều chất xơ, nước và các hợp chất tự nhiên tốt cho đường ruột.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn mạn tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bệnh không chỉ gây đau đớn ở các khớp mà còn có thể lan rộng đến các cơ quan khác như tim, phổi, mắt, và da.
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.