Theo Đông y, ngô có vị ngọt tính bình, vào Tỳ, Vị. Trong Ẩm thực chính yếu viết “Ngô chủ yếu là bổ trung ích khí”. Tỳ vị rất quan trọng đối với sinh mệnh (Tỳ vị luận). Tỳ vị khoẻ thì cơ thể khoẻ... Sau đây làm một số món ăn thuốc từ ngô
Trị bướu cổ đơn thuần và sốt rét ở các tỉnh miền núi: Ăn ngô cung cấp vitamin điều hoà tuyến giáp thay thế sắn sẽ có lợi do tránh được acid Cyanhydric HCN có trong sắn và măng làm giảm hấp thu Iot. Nấu canh ngô với cải soong càng làm phong phú iot. Ăn ngô còn có tác dụng phòng chữa sốt rét (trừ đàm).
Hỗ trợ điều trị ung thư (K)
K dạ dày, tuỵ: hạt ngô nghiền nhỏ 100g ninh nhừ thành cháo để ăn. Tác dụng giảm đau.
K gan, đái tháo đường, tăng huyết áp: râu ngô 60g, giảo cổ lam 60g, sắc nước uống thay trà hàng ngày.
Chữa đái tháo đường: râu ngô 100g, tuỵ lợn một cái nấu canh ăn. (Sách Y phương tâm kính).
Phòng trị bệnh tim mạch
Râu ngô nấu lấy 1 bát to nước (bỏ bã râu) nấu canh với tim lợn. Ăn một thời gian tim đỡ mệt hơn, dễ thở và ngủ ngon giấc hơn.
Chữa tăng huyết áp: uống nước luộc từ râu, lõi, thân, cùi bắp của ngô đều lợi tiểu.
Chữa tiểu tiện buốt khó khăn, đỏ sẻn, sỏi thận, phù nề: râu ngô, hoặc cùi ngô nấu nước uống.

Bổ thận tráng dương
Nước ngô rang: hạt ngô nguyên vỏ (không xay xát) rang cho thật vàng rồi nấu lấy nước uống thay trà hàng ngày. Hoặc lấy nước đó nấu với thịt chim bồ câu, bồ dục, ngẩu pín, sò... tác dụng càng mạnh.
Canh ngô nấu xương lợn: xương lợn 0,5kg với 2 nắm ngô hạt hoặc 1 bắp ngô, hầm nhừ, ăn. Tác dụng chữa yếu sinh lý. Nếu muốn hiệu quả cao hơn thì ăn kèm rượu thuốc, gồm: nhục thung dung 150g, câu kỷ tử 200g, đương quy 200g, nhân sâm 200g, dâm dương hoắc 100g, đại táo 20 quả.
Ngoài tác dụng bổ thận tráng dương, món này còn có tác dụng đại bổ nguyên khí, ăn ngon, ngủ tốt, lao động không mệt, da dẻ hồng hào, trẻ lâu.
Sản phụ ăn hạt ngô nấu với nước cơm rượu sẽ có sữa dồi dào nuôi con và ngực vẫn săn chắc. Nếu cho thêm đậu tương, đậu phộng (lạc) dùng chữa đau lưng.
Bệnh tiêu hoá
Bệnh gan mật, vàng da, có sỏi : râu ngô, nhân trần mỗi thứ 30g, hãm hoặc sắc nước uống thay trà hàng ngày làm tăng tiết mật. Có thể dùng ruột cây ngô thay râu ngô.
Bệnh dạ dày : ăn cháo ngô hạt, uống nước râu ngô. Trị chứng ợ chua, đầy bụng không tiêu, sa dạ dày. Không dùng cho người bị loét dạ dày.
Nha chu viêm: ăn dầu ngô ép (đã được sản xuất thành biệt dược).
Bệnh trẻ em:
Mùa hè trẻ hay nóng sốt, háo khát, quấy khóc. Trẻ ho gà, ho trong và sau khi bị sởi: Dùng râu ngô nấu nước cho trẻ uống.
Trẻ tiểu ít đỏ sẻn: lấy cùi ngô nấu nước uống. Có thể nấu cùng hạt bo bo (ý dĩ).
Trẻ biếng ăn, tiêu chảy phân sống: ăn cháo ngô non nấu với cà rốt, hoặc cháo ngô đậu trắng (bạch biển đậu).

Cháo ngô rất tốt cho trẻ biếng ăn, tiêu chảy phân sống.
Trường xuân bất lão: trên thế giới và ở Việt Nam, nhiều người thường xuyên ăn ngô để nguyên hạt, đã thọ trên 100, tóc vẫn đen, răng vẫn chắc, mắt tinh, tai tỏ, da không nhăn, đi đứng vững vàng, không có các bệnh tim mạch huyết áp...
Thân cây ngô, chặt đoạn, đập dập nấu lấy nước uống giúp sức khỏe sung mãn, tóc lâu bạc, da hồng hào. Kết hợp dùng nước này tắm rửa thì da trắng hồng, không có nếp nhăn.
Lưu ý: khi dùng hỗ trợ điều trị ung thư (K), không tán ngô thành bột mịn vì sẽ làm mất phần có tác dụng kháng K và tác dụng chống độc của thuốc chữa K.
Bắp ngô non nên luộc không nướng và cũng không nên phết mỡ để nướng thêm tác hại của mỡ cháy.
Ngô mốc không ăn vì có thể gây ung thư.
Tham khảo thêm thông tin tại: Râu ngô chữa sỏi tiết niệu, tiểu đường, sốt xuất huyết
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.
Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe xương, hỗ trợ chức năng miễn dịch và điều hòa nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể. Thiếu hụt vitamin D kéo dài có thể dẫn đến loãng xương, yếu cơ, tăng nguy cơ gãy xương và làm giảm khả năng chống nhiễm trùng.
Cúm mùa là một bệnh đường hô hấp do virus cúm gây ra, lây lan mạnh vào mùa thu và mùa đông. Mỗi năm có khoảng 1 tỷ người mắc cúm, trong đó có từ 3 đến 5 triệu trường hợp diễn biến nặng. Tiêm phòng cúm là cách hiệu quả để giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt với những người có nguy cơ cao. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ phân tích lợi ích của việc tiêm vắc xin cúm, đối tượng cần ưu tiên tiêm và thời điểm thích hợp để thực hiện tiêm chủng.
Trứng là nguồn protein hoàn hảo nhưng để tối ưu hóa năng lượng và khả năng hấp thụ dưỡng chất cần ăn đúng cách. Tham khảo 5 thực phẩm nên ăn cùng trứng giúp trứng phát huy tối đa sức mạnh dinh dưỡng.
Khi trời mưa hoặc trở lạnh, bạn có thể cảm thấy tâm trạng mình đi xuống, thiếu năng lượng và lười biếng hơn. Điều này không phải ngẫu nhiên, mà là dấu hiệu cho thấy thời tiết có ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần. Bài viết này sẽ đi sâu vào mối liên hệ giữa thời tiết và cảm xúc, giải thích tại sao những thay đổi theo mùa có thể gây ra trầm cảm theo mùa, đồng thời giới thiệu các biện pháp tự nhiên để giúp bạn duy trì tinh thần lạc quan ngay cả trong những ngày u ám.
Bệnh loãng xương thường tiến triển âm thầm và rất khó phát hiện. Đến khi phát tác, bệnh thường khó điều trị và phục hồi, để lại nhiều hậu quả nguy hiểm. Kiểm tra mật độ xương định kì được các bác sỹ khuyến cáo nhằm chẩn đoán sức khỏe xương và phát hiện sớm các nguy cơ bị loãng xương. Vậy, thực sự kết quả của đo mật độ xương có ý nghĩa gì?