Đối với người cao tuổi (NCT), những bất thường xảy ra ở bất kỳ một cơ quan nào cũng là những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng. Tăng hay giảm đường huyết (ĐH) là một trong những bệnh lý cần đặc biệt chú ý. Bài viết sau đây sẽ giúp độc giả, nhất là NCT có những hướng xử trí cần thiết nếu rơi vào tình trạng này.
Tăng ĐH xảy ra khi nào?
Tình trạng tăng ĐH ở NCT (ngoại trừ người có bệnh đái tháo đường) trong hầu hết trường hợp là tạm thời (khi vận động, khi ở trạng thái tâm lý quá phấn khích: cáu giận, hoảng sợ, bực tức, lo phiền...). Với NCT, chỉ cần nhớ rằng nếu tình trạng trên kéo dài và xảy ra thường xuyên, có thể làm tiết nhiều adrenalin, gan cạn kiệt glucid - đe dọa chuyển sang hạ ĐH. Thêm nữa, những trạng thái tâm lý trên còn ảnh hưởng xấu tới tim mạch, huyết áp. Hình thức tập luyện khí công và thiền tỏ ra có tác dụng tốt.
Trường hợp tăng ĐH kéo dài gặp trong bệnh đái tháo đường. Ở NCT, bệnh này không do thiếu insulin mà do các tế bào sử dụng kém hiệu quả chất này, do vậy nói chung những năm đầu tiên chưa cần chữa bằng insulin (như với người trẻ). Hiện đã có rất nhiều loại thuốc chữa, dùng lâu dài, nhưng chọn loại nào thích hợp thì cần được thầy thuốc hướng dẫn và bệnh nhân tự theo dõi. Phát hiện sớm bệnh đái tháo đường ở NCT không dễ, vì ĐH tăng thường không gây ra triệu chứng mà bệnh được phát hiện do tình cờ.
Do vậy, ở tuổi trên 60 rất nên đo ĐH định kỳ. Không nên đo trong nước tiểu (vì có đường trong nước tiểu là bệnh đã tiến triển một thời gian dài). Đái tháo đường ở NCT thường đi liền với các bệnh khác như: xơ vữa động mạch vành, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, do vậy những yếu tố này cần được kiểm soát chặt chẽ, NCT cần có một chế độ ăn uống và tập luyện sau khi đã đi thăm khám và có ý kiến của bác sĩ.
Xử trí đúng khi bị hạ ĐH
Hạ ĐH do đột ngột tăng lượng sử dụng, trong khi kho dự trữ đường ở gan không còn dồi dào, hoặc không huy động kịp. Nói chung, gan NCT giảm khả năng dự trữ glucid, nhất là khi xa bữa ăn (một số cụ già cần ăn nhiều bữa).
Khi tiếp cận môi trường lạnh (do đột ngột ra lạnh mà không mặc đủ ấm, hoặc do ở lâu ngoài trời lạnh), người trẻ dễ thích nghi, còn NCT rất dễ hạ ĐH. Nếu NCT dùng sức đột ngột mà thiếu sự khởi động cho cơ thể kịp thích nghi, cũng dẫn đến hạ ĐH. Ví dụ, đột ngột thực hiện một loạt động tác thể dục tương đối mạnh, hoặc tập khi bụng đói...
Khi có cơn nóng giận kéo dài, không tự kiềm chế được...
Hạ ĐH do gan giảm dự trữ. Ở NCT, ngay sau khi ăn, tổng lượng đường ở gan vẫn thấp. Tình trạng này càng rõ nếu mắc các bệnh gan mạn tính (xơ gan, suy gan), đáng chú ý là gan của người nghiện rượu... Nhiều người nghiện từ thời trẻ, dần dần có thói quen uống mà quên ăn. Một dấu hiệu nói lên tình trạng hạ ĐH ban đêm là ngủ mê mệt, trong giấc mơ thấy mình ăn rất nhiều và ngon lành. Một nguy cơ là dự trữ protein của cơ thể có thể cạn kiệt dần, do biến thành glucose để chống hạ ĐH. Hậu quả là suy dinh dưỡng (khó phục hồi).
Hạ ĐH do sử dụng quá mức các biện pháp chữa bệnh đái tháo đường.
Có thể do người bệnh sử dụng một chế độ ăn quá nghèo glucid với mục đích tích cực chữa bệnh, phòng biến chứng. Nên nhớ rằng, dù mắc bệnh đái tháo đường, bệnh nhân vẫn cần một khẩu phần glucid đủ mức cần thiết, chủ yếu là loại glucid nguyên hạt. Tuy nhiên, đa số bệnh nhân đái tháo đường bị hạ ĐH thường do sử dụng quá mức các thuốc hạ ĐH (hy vọng kiềm chế bệnh tốt hơn), mà không theo chỉ dẫn của thấy thuốc và không tự theo dõi định kỳ mức ĐH.
Tế bào não duy nhất chỉ sử dụng glucose làm thức ăn, mà không sử dụng mỡ, protein như mọi tế bào khác. Do vậy, nếu ĐH hạ đột ngột xuống dưới 4mmol/l sẽ có ngay các triệu chứng thần kinh: run rẩy, mắt hoa, xây xẩm; nếu giảm tới 3mmol/l sẽ có bủn rủn, choáng váng, vã mồ hôi lạnh, tim đập nhanh, mạch yếu... Nếu còn hạ tiếp sẽ có cứng hàm, lú lẫn, mất hẳn trương lực các cơ (ngã vật), hôn mê. Cùng một mức độ giảm ĐH, NCT thường có bệnh cảnh nặng hơn, khó cứu chữa hơn (so với người trẻ).
Nếu hạ ĐH từ từ, thoạt tiên thấy đói cồn cào, bộ máy tiêu hóa co bóp mạnh. Sau đó cũng là run rẩy, mắt hoa, vã mồ hôi lạnh, tứ chi bủn rủn; do diễn biến kéo dài nên cơ thể trẻ đủ thời gian để kịp điều chỉnh (huy động protein); trái lại, NCT sự huy động này tỏ ra chậm chạp và kém hiệu lực, do vậy hậu quả thường nặng nề: có thể hôn mê, có thể thiểu lực kéo dài, có thể suy cạn kho protein khó hồi phục.
Trong tình trạng này, NCT cần ăn ngay các loại glucid dễ hấp thu: kẹo, bánh ngọt, khẩn cấp hơn có thể dùng nước đường (không dùng đường hóa học), nước quả cây, sữa... Trường hợp khẩn cấp phải truyền glucose vào máu.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.
Mùa thu là thời điểm cơ thể dễ phải đối mặt với nhiều thách thức do sự thay đổi của thời tiết và môi trường. Vậy, mùa thu nên bổ sung những loại vitamin nào?
Da đầu ngứa có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm thói quen gội đầu, chấy, bệnh vẩy nến, v.v.