Nguyên tắc dùng thuốc
Đái tháo đường là bệnh mạn tính, phức tạp. Một khi đã phải dùng thuốc thì phải dùng suốt đời để kiểm soát đường huyết và phòng ngừa biến chứng. Bên cạnh việc phải sử dụng thuốc dài ngày, người bệnh đôi khi phải kết hợp với nhiều loại thuốc khác như thuốc trị tăng huyết áp, trị tăng mỡ máu… (do đặc điểm đa bệnh lý ở nngười có tuổi), có thể gây ra nhiều tác dụng phụ hoặc tương tác thuốc có hại đến sức khỏe. Vì vậy, khi dùng thuốc người bệnh cần chú ý một số vấn đề sau để dùng thuốc sao cho an toàn và hiệu quả nhất:
Dùng thuốc đúng giờ, đúng liều: Việc dùng thuốc đúng giờ, đúng liều theo đơn của bác sĩ kê sẽ giúp tăng cường hiệu quả của thuốc. Nếu sử dụng thuốc lộn xộn trong ngày có thể gây tăng, hạ đường huyết, là cơ hội xuất hiện các biến chứng nguy hiểm. Sử dụng thuốc không nhất quán giữa các mốc thời gian có thể làm giảm hiệu quả của thuốc. Thông thường thuốc hạ đường huyết tác dụng nhanh được khuyên dùng trước bữa ăn 30 phút; thuốc tác dụng chậm nên sử dụng trước khi ăn 60 phút. Tuy nhiên có những thuốc uống vào thời điểm khác như ngay sau bữa ăn… Người bệnh cần tuân thủ. Trước khi dùng bất kỳ loại thuốc nào người bệnh cần đọc kỹ hướng dẫn đối với loại thuốc đó.

Khi thấy đường huyết ổn định, tuyệt đối không ngưng thuốc đột ngột: Việc ngưng thuốc đột ngột là điều tối kỵ với bệnh nhân đái tháo đường, vì có thể dẫn đến nhiều hậu quả xấu cho sức khỏe. Nếu muốn ngưng phải xin ý kiến của bác sĩ điều trị. Bác sĩ sẽ xem xét để giảm liều thuốc từ từ và tối giản liều tới mức cần thiết. Thông thường người bệnh đái tháo đường sẽ phải chung sống với thuốc suốt cả cuộc đời, bởi việc kiểm soát đường huyết bắt buộc phải dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của cả ba yếu tố: Dùng thuốc, ăn uống và luyện tập. Nếu mức đường huyết hiện tại của người bệnh đã và đang ổn định, cần nhớ, để có được kết quả đó không chỉ có một chế độ ăn uống, tập luyện khoa học mà còn nhờ có sự đáp ứng tốt với thuốc điều trị của bác sĩ và người bệnh cần phải tiếp tục duy trì.
Nên kiểm tra chỉ số đường huyết trước khi uống thuốc để có biện pháp xử lý kịp thời nếu chỉ số này bắt đầu giảm xuống quá thấp: Biểu hiện của hạ đường huyết bao gồm: Cảm giác đói cồn cào, thèm ăn, run tay chân, vã mồ hôi, lạnh ẩm, nếu nặng sẽ lơ mơ rồi đi vào hôn mê. Đo sẽ thấy chỉ số đường huyết dưới 2,5mmol/l. Nguyên nhân do người bệnh đái tháo đường dùng quá liều thuốc hạ đường huyết hoặc ăn uống thất thường, kiêng khem quá mức. Khi có các biểu hiện trên người bệnh nên ngậm ngay một viên kẹo, ăn một chiếc bánh quy hoặc uống một cốc sữa… để làm tăng đường huyết trở lại.
Các loại thuốc tây có ưu điểm lớn là hạ đường huyết nhanh nhưng lại rất dễ gây tụt đường huyết bất chợt, không duy trì được đường huyết ổn định hoặc tiềm ẩn nguy cơ tác dụng phụ không đáng có, nên người bệnh cần thật sự cẩn trọng…
Đề phòng tác dụng phụ của một số thuốc thường dùng
Nhóm Sulfonylurea (SU): Nhóm thuốc này có tác dụng làm tăng tiết insulin của tụy (kích thích tế bào beta tụy tiết insulin). Các thuốc thế hệ thứ nhất như tolbutamide, chlorpropamide, tolazamide, hiện nay ít được dùng. Thuốc thế hệ thứ hai như glyburid, glipizid, gliclazid, glibenclami được ưa dùng hơn do có tác dụng tốt, ít tác dụng phụ hơn thế hệ 1. Tuy nhiên cần lưu ý, tất cả các thuốc làm tăng tiết insulin (SU) là những thuốc có khả năng gây hạ đường huyết (đây là một trong những biến chứng trong điều trị) và tăng cân. Vì vậy, những bệnh nhân lớn tuổi phải hết sức lưu ý, vì đối tượng này có nguy cơ hạ glucose huyết cao hơn do người bệnh dễ bỏ ăn, ăn kém và có chức năng thận suy giảm.
Metformin: Là thuốc duy nhất trong nhóm biguanide còn được sử dụng hiện nay, có tác dụng làm giảm sản xuất glucose ở gan, làm giảm chỉ số HbA1c khoảng 1 – 1,5%; là thuốc thường được lựa chọn khởi đầu điều trị ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Hai bất lợi nổi bật của metformin là tác dụng phụ ở đường tiêu hóa và gây nhiễm acid lactic.
Ở đường tiêu hóa, metformin gây rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy, nôn mửa nhiều). Người bệnh nên khởi đầu ở liều thấp và tăng liều từ từ mỗi 5 – 7 ngày cho đến liều duy trì, uống thuốc sau ăn sẽ giảm tác dụng phụ trên đường tiêu hóa.
Do gây nhiễm toan lactic nên những đối tượng có nguy cơ cao như: Suy hô hấp, suy tim, mất nước nặng, người bị suy thận, xơ gan, suy gan, người uống nhiều rượu… sẽ không được dùng thuốc này hoặc nếu dùng phải hết sức cẩn trọng.
Pioglitazone: Đây là thuốc thuuộc nhóm thiazolidinedione (TZD hay glitazone), có tác dụng làm tăng nhạy cảm với insulin ở tế bào cơ, mỡ và gan. Pioglitazone không gây hạ glucose huyết nếu dùng đơn độc. Tuy nhiên thuốc có thể gây phù, tăng cân (nhất là khi dùng cùng với insulin), tăng nguy cơ gãy xương (ở phụ nữ), thiếu máu. Gần đây có mối lo ngại rằng pioglitazone có thể làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang. Vì vậy, khi sử dụng thuốc này cần phải hỏi kỹ bệnh nhân về tiền sử ung thư, đặc biệt là ung thư bàng quang, kiểm tra nước tiểu tìm hồng cầu trong nước tiểu, nên dùng liều thấp và không nên dùng kéo dài.
Acarbose: Đây là thuốc ức chế men α-glucosidase. Do cạnh tranh và ức chế tác dụng của enzyme thủy phân đường phức thành đường đơn, do đó acarbose làm chậm hấp thu carbohydrat từ ruột, làm giảm HbA1c từ 0,5 – 0,8%. Tác dụng của thuốc là làm giảm glucose huyết sau ăn. Khi dùng đơn độc cũng không gây hạ glucose huyết.

Do làm tăng lượng carbohydrat không được hấp thu ở ruột non đến đại tràng nên thuốc gây đầy bụng, khó tiêu, đi ngoài phân lỏng. Cần uống thuốc ngay trước ăn hoặc ngay sau miếng ăn đầu tiên và bữa ăn phải có carbohydrat.
Thuốc có tác dụng lên incretin: Incretin là hormon ở ruột, rất quan trọng, làm tăng tiết insulin, giảm tiết glucagon, và nó chỉ tăng tiết sau khi ăn. Như vậy incretin đóng vai trò như một hormon điều hòa sự bài tiết insulin để đáp ứng với từng bữa ăn. Trong nhóm này có hai loại thuốc: Thuốc đồng vận thụ thể GLP- và thuốc ức chế men dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4). Hai nhóm thuốc này ra đời trong vài năm trở lại đây, được ADA (Hiệp hội đái tháo đường Mỹ) đưa vào trong khuyến cáo điều trị đái tháo đường.
Đối với thuốc ức chế enzyme DPP-4: Gồm liraglutide, lixisenatide, albiglutide, exenatide… tác dụng phụ thường gặp là viêm hầu họng, nhiễm khuẩn hô hấp trên, dị ứng ngứa ngoài da, đau khớp, nhiễm trùng tiết niệu…Ngoài các bất lợi này, vildagliptin trong nhóm thuốc này có thể gây chóng mặt, nhức đầu, viêm gan (nhưng hiếm gặp); linagliptin có thể gây ho, viêm tụy cấp…
Đối với thuốc đồng vận thụ thể GLP-1: Hiện nước ta đang dùng liraglutide. Tác dụng phụ chính của thuốc là buồn nôn, nôn gặp khoảng 10% trường hợp, tiêu chảy. Có thể gặp viêm tụy cấp nhưng hiếm. Thuốc nên được sử dụng thận trọng ở người có tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị ung thư giáp dạng tủy hoặc bệnh đa u tuyến nội tiết loại 2.
Dapagliflozin: Đây là thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển Natri-glucose SGLT2. Thuốc làm giảm HbA1c từ 0,5-0,8% khi dùng đơn độc hoặc phối hợp với thuốc viên khác hoặc insulin. Do ức chế sự tái hấp thu glucose ở ống thận (ống lượn gần) làm tăng glucose trong nước tiểu, tạo ra tình trạng lợi niệu thẩm thấu, làm cho bệnh nhân đi tiểu nhiều và gây mất nước. Như vậy tác dụng phụ của nhóm này nói chung là gây mất nước. Thêm vào đó bệnh nhân có nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu, nhiễm nấm đường niệu - dục.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Glycomark – xét nghiệm mới trong theo dõi kiểm soát đường huyết
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!
Đây là một hiểu nhầm khá thú vị bởi đàn ông thường cho mình là phái mạnh, loãng xương là bệnh của phải yếu – chị em mới bị loãng xương!
Khi trời lạnh, cơ thể trở nên nhạy cảm hơn trước sự tấn công của các loại virus gây bệnh đường hô hấp. Việc duy trì thói quen uống một ly nước chanh gừng ấm vào buổi sáng là liệu pháp tự nhiên tuyệt vời giúp kích hoạt hệ miễn dịch và giữ ấm cơ thể từ bên trong.
Không gian sinh hoạt hàng ngày của chúng ta càng trở nên quan trọng hơn trong những tháng mùa đông khi chúng ta thường xuyên phải ở trong nhà để tránh xa cái lạnh. Khi các tòa nhà được bịt kín để giữ nhiệt trong mùa đông, các chất ô nhiễm có khả năng gây hại cũng bị giữ lại bên trong. Do đó, điều quan trọng là phải đảm bảo không khí bên trong các tòa nhà đó an toàn để hít thở với nồng độ chất ô nhiễm không khí trong nhà thấp hoặc không có, đặc biệt là những chất có thể gây ung thư hoặc khiến cơ thể dễ mắc bệnh hơn.