Đái tháo đường typ 1: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị
Nguyên nhân chính xác của đái tháo đường typ 1 chưa được làm rõ, nhưng được cho là do phản ứng tự miễn. Đôi khi, các tác nhân như virus sẽ làm cho hệ miễn dịch của cơ thể sản xuất ra các kháng thể giết chết các tế bào chịu trách nhiệm sản xuất insulin trong tụy.
Insulin sẽ giúp các tế bào trong cơ thể bạn lấy glucose từ trong máu. Khi glucose từ máu di chuyển vào tế bào, lượng glucose trong máu giảm xuống. Đa số tế bào sử dụng glucose để làm năng lượng. Một sốt ít tế bào, chẳng hạn như tế bào tại gan và cơ, lưu trữ glucose dưới dạng glycogen để cơ thể sử dụng glycogen làm năng lượng dự trữ khi cần thiết. Nồng độ đường huyết tăng cao sẽ gây ra những vấn đề cả cấp tính và mãn tính.
Nguyên nhân của đái tháo đường typ 1
Đái tháo đường typ 1 là một bệnh tự miễn. Bệnh sẽ xảy ra khi hệ miễn dịch của cơ thể tấn công các tế bào beta (tế bào sản xuất insulin) trong tụy. Người bệnh mắc đái tháo đường typ 1 không thể tạo ra đủ insulin để kiểm soát lượng đường huyết.
Ai là người có nguy cơ bị đái tháo đường typ 1?
Các yếu tố nguy cơ của đái tháo đường typ 1 hiện nay chưa được biết đến nhiều. Tuy nhiên, một vài yếu tố đã được xác định.
Yếu tố di truyền có thể là một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong đái tháo đường typ 1. Nếu người thân trong gia đình bạn mắc bệnh này, nguy cơ bạn cũng sẽ bị bệnh này sẽ gia tăng. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người có nguy cơ đái tháo đường typ 1 sẽ phát triển bệnh.
Những người trẻ có nguy cơ đái tháo đường typ 1 cao hơn, phổ biến nhất là ở độ tuổi 11-14. Bệnh rất hiếm gặp ở những người trên 40 tuổi.
Thời tiết lạnh có thể làm gia tăng nguy cơ đái tháo đường typ 1, bởi vậy những người sống ở vùng có khí hậu lạnh sẽ có nguy cơ cao hơn. Người dân sống ở Phần Lan có nguy cơ mắc đái tháo đường typ 1 cao gấp 300 lần người dân sống ở Mỹ.
Những người có một số loại kháng thể nhất định sẽ có nguy cơ mắc đái tháo đường typ 1 cao hơn. Những loại kháng thể này được sản xuất ra do phản ứng của cơ thể với một số loại virus. Bởi vậy, cũng có ý kiến cho rằng, một số loại virus nhất định sẽ đóng vai trò trong việc phát triển căn bệnh này.
Màu da cũng là một yếu tố nguy cơ của bệnh. Bệnh thường phổ biến ở những người da trắng nhiều hơn là người dân châu Á và châu Phi (da vàng và da đen).
Cuối cùng, chế độ ăn khi còn nhỏ cũng đóng một vai trò quan trọng, bởi những trẻ được bú mẹ lâu hơn và ăn dặm muộn hơn sẽ có nguy cơ bị đái tháo đường typ 1 thấp hơn.
Triệu chứng của đái tháo đường typ 1
Đái tháo đường typ 1 phát triển nhanh hơn đái tháo đường typ 2. Những triệu chứng sau đây có thể là dấu hiệu của đái tháo đường typ 1:
Chẩn đoán
Đái tháo đường typ 1 thường được chẩn đoán thông qua một chuỗi các xét nghiệm. Vì đái tháo đường typ 1 tiến triển rất nhanh, người bệnh thường được chẩn đoán khi có những dấu hiệu và triệu chứng của tăng đường huyết và khi lượng đường huyết tăng cao hơn 200mg/dL.
Điều trị
Bởi vì cơ thể không thể sản xuất ra insulin được nữa, người bệnh đái tháo đường typ 1 sẽ cần phải tiêm insulin và kiểm soát chế độ ăn, cũng như chế độ luyện tập để giữ lượng đường huyết trong mức cho phép
Insulin
Người bệnh đái tháo đường typ 1 cần đến insulin hàng ngày. Insulin thường được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm. Một số người dùng bơm insulin. Bơm sẽ bơm insulin vào cơ thể thông qua một lỗ nhỏ trên da.
Lượng insulin tiêm sẽ khác nhau trong cả ngày. Người bệnh đái tháo đường typ 1 sẽ đo nồng độ đường huyết của họ để biết được họ cần bao nhiêu insulin. Chế độ ăn và luyện tập cũng ảnh hưởng đến lượng đường huyết.
Người bệnh đái tháo đường typ 1 nên ăn thường xuyên nhiều bữa nhỏ để giữ lượng đường huyết ổn định. Tập thể dục cũng ảnh hưởng đến lượng đường trong máu và lượng insulin tiêm vào cũng cần phải được điều chỉnh cho việc này.
Chăm sóc chân
Bệnh đái tháo đường typ 1 có thể gây tổn thương các dây thần kinh, đặc biệt là các dây thần kinh ở chân. Những vết cắt nhỏ có thể dẫn đến tình trạng loét và nhiễm trùng nghiêm trọng. Bởi vậy, điều trị đái tháo đường typ 1 bao gồm cả việc thường xuyên kiểm tra chân.
Biến chứng của đái tháo đường typ 1
Đường huyết cao có thể phá hủy nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể. Không kiểm soát tốt có thể dẫn đến những biến chứng như:
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tìm hiểu hai loại hooc môn quan trọng đối với bệnh tiểu đường
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.