Theo lý thuyết, không có câu trả lời chính xác về thời gian biến chứng của bệnh đái tháo đường. Tùy thuộc vào từng dạng biến chứng cũng như tình trạng bệnh mà thời gian xuất hiện biến chứng cũng khác nhau. Có một thực tế là bệnh đái tháo đường vốn tiến triển hết sức âm thầm. Do đó, có khoảng trên 50% bệnh nhân đái tháo đường type 2 khi được chẩn đoán mắc bệnh đã bị biến chứng rồi, chỉ là mức độ biến chứng khác nhau.
Biến chứng đái tháo đường cấp tính - xuất hiện bất kỳ thời điểm nào
Các biến chứng đái tháo đường cấp tính có thể xảy ra rất đột ngột, không có dự báo trước. Người bệnh đái tháo đường dù mới chẩn đoán hay mắc lâu năm cũng đều có thể mắc biến chứng cấp tính nếu không kiểm soát tốt đường huyết.
Hạ đường huyết
Thường xảy ra ở người bệnh đái tháo đường dùng thuốc tiêm insulin hoặc thuốc nhóm sulfonylurea. Các loại thuốc này thúc đẩy cơ thể sản sinh insulin, do đó có thể gây hạ đường huyết nếu bạn ăn quá ít và hoạt động nhiều hơn bình thường. Ngoài ra, dùng quá liều thuốc aspirin, uống nhiều rượu bia cũng có thể gây hạ đường huyết.
Dấu hiệu cảnh báo: Rối loạn nhịp tim, đổ nhiều mồ hôi, da trắng bệch, tê bì ngón tay/ngón chân, lú lẫn, nhức đầu, buồn ngủ quá mức…
Cách xử trí: Bạn cần ăn ngay các thực phẩm có đường để nhanh chóng làm tăng đường huyết. Với các trường hợp nghiêm trọng hơn (mất ý thức, bất tỉnh), người bệnh cần được đưa tới cơ sở y tế để cấp cứu.
Tăng áp lực thẩm thấu do đường huyết cao
Mặc dù hiếm khi xảy ra, nhưng biến chứng này có thể đe dọa tới tính mạng. Người bệnh đái tháo đường cần thận trọng với biến chứng này khi bị ốm (sốt, cảm lạnh, cảm cúm). Dấu hiệu cảnh báo: Giảm cân nhanh trong vài ngày do mất nước nghiêm trọng, đi tiểu nhiều, thấy rất khát nước, hôn mê (do đường huyết tăng cao nhưng không bù nước kịp thời).
Cách xử trí: Người bệnh cần được đưa tới cơ sở y tế để cấp cứu, bù nước và điện giải (thường là truyền kali) ngay lập tức.
Biến chứng đái tháo đường mạn tính - tiến triển âm thầm trong nhiều năm
Các biến chứng đái tháo đường mạn tính sẽ lần lượt xuất hiện sau khoảng từ 5 - 20 năm, nhưng cũng có người khi phát hiện bệnh thì đã có biến chứng rồi. Biến chứng mạn tính của bệnh đái tháo đường gồm có:
Biến chứng trên mạch máu nhỏ: Mắt, thận và hệ thần kinh
- Mắt: Nồng độ glucose trong máu tăng cao trong thời gian dài có thể gây đục thủy tinh thể, bệnh võng mạc đái tháo đường, gây mất thị lực.
- Thận: Các mạch máu nhỏ bị tổn thương làm suy giảm chức năng của thận, khiến thận bị suy yếu và giảm dần khả năng lọc máu.
- Thần kinh: Người bệnh đái tháo đường có thể phát triển nhiều dạng biến chứng thần kinh, nhưng phổ biến nhất là biến chứng thần kinh ngoại biên. Đường huyết cao gây tổn thương các dây thần kinh tới tay, chân, dẫn tới mất cảm giác hoặc thường xuyên thấy đau đớn, tê bì, ngứa ran tại các chi. Các vết thương tại các chi cũng lâu lành, dễ nhiễm trùng và tăng nguy cơ phải đoạn chi.
Với một số người bệnh đái tháo đường type 2, các biến chứng tổn thương thần kinh có thể đã xuất hiện từ khi mới chẩn đoán.
Biến chứng trên các mạch máu lớn: Tim, não bộ
Bệnh đái tháo đường type 2 cũng có thể gây xơ vữa các mạch máu lớn và làm tăng nguy cơ đau tim, đột quỵ, bệnh động mạch ngoại biên.
Cách trì hoãn thời gian biến chứng của bệnh đái tháo đường
Để ngăn ngừa biến chứng đái tháo đường, người bệnh cần có kế hoạch kiểm soát đường huyết tốt bằng cách thay đổi lối sống lành mạnh (không hút thuốc lá, kiểm soát tốt huyết áp và mỡ máu), đi khám sức khỏe định kỳ. Thêm vào đó, bạn cũng cần kiểm soát các bệnh lý mắc kèm khác (ví dụ như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu...) để ngăn ngừa các biến chứng đái tháo đường mạn tính.
Bên cạnh đó, bổ sung một số loại thảo dược như nhàu, hoài sơn, mạch môn, câu kỷ tử... cũng có thể giúp ổn định đường huyết và ngăn chặn biến chứng đái tháo đường.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?