Bệnh gây ra thiếu máu (thiếu cung cấp máu) cấp hay mạn tính. Các triệu chứng thay đổi từ đau bắp chân khi vận động (từ chuyên môn gọi là “đau cách hồi”) cho đến đau liên tục cả khi nghỉ (giai đoạn “thiếu máu chi nguy kịch”).
Bệnh có tiên lượng xấu, tỉ lệ cơn đau tim hay đột quỵ cao hơn 4 - 5 lần so với cộng đồng cùng với nhiều biến chứng nguy hiểm khác như suy thận cấp, nhiễm trùng nhiễm độc, loạn nhịp tim… Tuy vậy tỉ lệ bệnh nhân được điều trị ở Mỹ chỉ là 25%, do đa số bệnh nhân không có triệu chứng.
Triệu chứng
Bệnh tiến triển qua nhiều giai đoạn:
Đầu tiên là đau ở mông, đùi và/hay bắp chân, xảy ra khi đi bộ hay tập thể dục và ngồi nghỉ thì hết đau. Triệu chứng khập khiễng cách hồinày sẽ nặng dần theo thời gian, có nhiều mức độ khác nhau từ khó chịu chút ít cho đến gây tàn tật thực sự. Năm dấu hiệu thực thể (tiếng Anh) đều bắt đầu bằng chữ cái “p”: tê (paraesthesia/ anaesthesia), đau (pain), tái nhợt (pallor), không sờ thấy mạch đập (pulselessness) và liệt chi (paralysis).
Đau cách hồi có thể tiến triển thành thiếu máu chi nguy kịch. Đây là tình trạng nguy ngập nhất của bệnh lý động mạch ngoại biên của chi và được định nghĩa: đau chi cả khi nghỉ do thiếu máu, đau liên tục nhất là ở bàn chân và về đêm, tiến tới xuất hiện các tổn thương loét hay hoại thư của chi do thiếu máu nuôi (mất mô về phương diện sinh học).
Các yếu tố nguy cơ: tuổi tác, hút thuốc, đái tháo đường, quá cân hay béo phì, sống tĩnh tại, cholesterol-máu cao, cao huyết áp, gia đình có người bị xơ - mỡ hay đi khập khiễng.
Chẩn đoán
Đặt ống nghe dọc theo đường đi các động mạch của chi: nghe thấy tiếng thổi (“whoosing” sound) tại nơi động mạch bị hẹp.
Tương tự như đo chỉ số áp suất động mạch khuỷu - cánh tay như ở chi trên, ở chi dưới người ta đo áp suất động mạch chày sau và động mạch mu bàn chân (gần các mắt cá chân) một khác biệt lớn về áp suất giữa hai vị trí này có thể là báo hiệu đáng tin cậy cho BĐMNB của chi dưới.
Các khám nghiệm cận lâm sàng: siêu âm Doppler, chụp CT mạch máu, chụp động mạch cộng hưởng từ, chụp động mạch cản quang...
Cần phân biệt hai bệnh cảnh hay là hai nguyên nhân chính của tắc động mạch: thuyên tắc động mạch và huyết khối động mạch. Phân biệt được các chứng này ở thời kỳ đầu rất có ý nghĩa đối với việc điều trị thiếu máu chi cấp tính, vì hai chứng bệnh này khác nhau về bản chất và cách điều trị cũng không giống nhau.
- Trong thuyên tắc động mạch cấp: 80% các cục thuyên tắc (emboli), đa số trường hợp là các cục máu đông, xuất phát từ tim (huyết khối tâm thất sau nhồi máu cơ tim, huyết khối tâm nhĩ ở các bệnh nhân rung nhĩ) và đi đến các chi, nhất là chi dưới. 20% còn lại là các cục máu đông hay các mảng xơ - mỡ hình thành tại chỗ nơi các động mạch bị tổn thương (từ các phình mạch hoặc từ các tổn thương xơ - mỡ). Các cục thuyên tắc này tách ra và đi đến các chi cùng nhiều nơi khác, thường nằm ở các chỗ hẹp của động mạch thí dụ như nơi có mảng xơ - mỡ, nơi động mạch phân nhánh…
- Huyết khối động mạch hình thành tại chỗ nghĩa là ngay chính tại động mạch, thường là tại vị trí các thương tổn xơ-mỡ của động mạch. Mở đầu và diễn biến không đột ngột và cấp tính như trong thuyên tắc. Nếu thiếu máu không thật nguy ngập cần được can thiệp ngay thì có thể điều trị làm tan cục máu qua đường động mạch.
Chẩn đoán phân biệt:
- Chẩn đoán phân biệt đau ở chi dưới khi đi bộ với đau thần kinh tọa và hẹp ống sống, huyết khối tĩnh mạch sâu, các hội chứng chèn ép thần kinh của chi dưới và tổn thương cơ hoặc dây chằng.
- Phân biệt đau cách hồi do tắc động mạch (vascular claudication) với đau cách hồi do nguyên nhân thần kinh. Tất nhiên cách điều trị hoàn toàn khác nhau. Đau cách hồi do thần kinh gồm một nhóm các triệu chứng gây ra do hẹp ống sống gây chèn ép tủy sống hay do hẹp các đường thoát ra của dây thần kinh gây chèn ép các rễ thần kinh ở vùng thắt lưng. Đau cách hồi do thần kinh chủ yếu gặp ở người lớn tuổi, yếu các đĩa sụn gian đốt sống dẫn đến chèn ép dây thần kinh. Các triệu chứng có thể biến đi chậm hơn so với nguyên nhân mạch máu và đôi khi phải cần đến vật lý trị liệu hay dùng thuốc. Một số trường hợp, ngồi hay cúi ra trước có thể làm giảm áp lực đè lên các dây thần kinh và làm dịu các triệu chứng.
Điều trị:
Giảm các yếu tố nguy cơ: bỏ hút thuốc, đi bộ (thường là 30 phút mỗi ngày), dùng thuốc và thay đổi lối sống nhằm giảm cholesterol - máu, huyết áp, đường-huyết.
Đầu tiên là đau ở mông, đùi và/hay bắp chân, xảy ra khi đi bộ hay tập thể dục
Dùng thuốc, thí dụ aspirin, để phòng cơn đau tim và đột quỵ.
Dùng thuốc để cải thiện quãng đường đi được, thí dụ cilostazol (Pletal).
Ăn hạn chế các loại mỡ bão hòa.
Điều trị thực thụ: trong nhiều năm trước đây là lấy bỏ cục huyết khối hay cục thuyên tắc và làm cầu nối qua chỗ hẹp của động mạch. Gần đây hơn, điều trị làm tan cục máu và các can thiệp nội mạch qua da được lựa chọn.
Điều trị làm tan cục máu qua đường động mạch: đưa một catête vào động mạch đến tận cục máu đông, truyền nhỏ giọt các thuốc thường dùng như: streptokinase, urokinase, TPA (tissue plasminogen activator). Dùng streptokinase, tan cục máu trong vòng 48 tiếng. Dùng TPA, tan trong vòng 24 tiếng. Với TPA phun xịt trực tiếp, tan dưới 6 tiếng. Các chống chỉ định chính: đột quỵ mới, rối loạn đông máu, và mang thai.
Các can thiệp nội mạch: tạo hình mạch (angioplasty), bóng kèm các lưỡi dao cắt (cutting balloon) làm rộng chỗ hẹp, bóng lạnh (Cryo Plasty) làm ngừng phát triển mảng xơ - mỡ, đặt stent các loại, laser cắt bỏ mảng xơ - mỡ (laser atherectomy)…
Phẫu thuật: chỉ định cho những người mà can thiệp nội mạch không thích hợp, thường là làm cầu nối.
Tuy vậy, biến chứng và tử vong cũng như tỉ lệ cắt bỏ chi dưới vẫn còn cao. Do đó, bất chấp phương pháp điều trị ra sao, việc chẩn đoán sớm và bắt đầu điều trị sớm là rất cần thiết để cứu chi bị thiếu máu.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Nhận biết huyết khối tại các vị trí khác nhau trên cơ thể
Lỵ trực khuẩn là tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cấp tính và cần được điều trị kịp thời để phòng tránh những biến chứng nguy hiểm.
Khi mùa thi đến gần, học sinh bước vào giai đoạn căng thẳng và áp lực cao, đòi hỏi sự tập trung tối đa cũng như khả năng ghi nhớ và tư duy sắc bén. Bên cạnh việc học tập chăm chỉ, chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức khỏe não bộ, giúp kiểm soát lo âu và tối ưu hóa hiệu suất học tập.
Trong bối cảnh các nhà khoa học không ngừng tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa ung thư, chế độ ăn uống, đặc biệt là việc tiêu thụ trái cây và rau quả, được xem là một yếu tố quan trọng. Cà chua, với thành phần lycopene nổi bật, đang thu hút sự chú ý đặc biệt.
Việc thiết lập lịch trình ngủ và thói quen trước khi đi ngủ, đặt đồng hồ báo thức và điều chỉnh chế độ ăn uống là một số phương pháp có thể giúp bạn ngủ ngon hơn và thức dậy dễ dàng vào buổi sáng.
Tuy không có chế độ ăn kiêng đặc biệt nào có thể chữa khỏi hội chứng thiên thần nhưng dinh dưỡng hợp lý có thể giúp kiểm soát cân nặng, cải thiện giấc ngủ, quản lý táo bón và hỗ trợ phát triển nhận thức.
Dậy thì là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời mỗi người, đánh dấu sự chuyển đổi từ trẻ em sang người trưởng thành. Đây là giai đoạn cơ thể có nhiều thay đổi về mặt thể chất và tâm sinh lý, đặt nền móng cho sức khỏe sinh sản và sức khỏe tổng quát trong tương lai. Việc thấu hiểu những biến đổi này, cùng với sự quan tâm, hỗ trợ từ gia đình và xã hội, sẽ giúp thanh thiếu niên vượt qua giai đoạn dậy thì một cách an toàn và khỏe mạnh.
Bệnh lao hạch gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và khả năng ăn uống. Việc phát hiện sớm, điều trị đúng phác đồ và có chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp người bệnh nhanh phục hồi sức khỏe.
Bạn có thể dùng salad như một bữa ăn lành mạnh hoặc món ăn kèm, nhưng salad có thể gây ra một số vấn đề về tiêu hóa tùy thuộc vào thành phần của nó. Rau và trái cây sống là những thực phẩm có thể gây đầy hơi và chướng bụng do một số hợp chất và vi khuẩn, và chúng có thể là lý do tại sao bạn có thể bị đau bụng dữ dội sau khi ăn salad.