Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Các yếu tố nguy cơ mắc ung thư vú

Ung thư vú là loại ung thư khá phổ biến hiện nay. Ước tính cứ 8 phụ nữ Mỹ sẽ có 1 người được chẩn đoán là ung thư vú. Có khoảng hơn 2 triệu người phụ nữ Mỹ đang được điều trị ung thư vú. Đàn ông cũng có khả năng mắc ung thư vú, tuy nhiên tỷ lệ tử vong sẽ thấp hơn, chỉ khoảng 0.22%

Tỷ lệ một người phụ nữ tử vong vì ung thư vú là 1/30 bệnh nhân ung thư vú, thấp hơn so với tỷ lệ tử vong vì ung thư phổi. Hiện nay, tỷ lệ tử vong ung thư vú có xu hướng giảm, tỷ lệ sống sót tăng lên. Điều này có thể được giải thích do phát hiện sớm và có những phương pháp điều trị thích hợp.

Yếu tố gây ung thư vú có những nguyên nhân kiểm soát được và cả những nguyên nhân không kiểm soát được. Những yếu tố nguy cơ nổi bật thường được kể đến sau đây:

Một số yếu tố không kiểm soát được:

  • Giới tính: Nữ giới có nguy cơ mắc bệnh cao hơn nam
  • Tuổi cao: Tuổi càng cao tỷ lệ nguy cơ mắc ung thư vú càng cao. Có 8 trong số 10 loại ung thư vú được chẩn đoán ở phụ nữ trên 50 tuổi.
  • Gen: Khoảng 5-10% ung thư vú liên quan đến đột biến gen. BRCA1 và BRCA2 là những gen đột biến thường gặp. Nếu cơ thể chứa gen này, thì nguy cơ mắc ung thư vú có thể lên đến 80%. Một số đột biến gen khác cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
  • Di truyền: Nếu có quan hệ huyết thống với những người bị bệnh thì nguy cơ mắc bệnh cũng tăng lên. Cụ thể, nếu mẹ, chị gái hoặc con gái bạn bị ung thư vú thì nguy cơ của bạn mắc bệnh tăng lên gấp đôi.
  • Tiền sử mắc ung thư vú trước đó: Nếu đã từng bị ung thư vú một bên thì bạn có thể bị ung thứ vú bên còn lại, hoặc xuất hiện thêm khối u ở bên vú đầu tiên. Trường hợp này sẽ được coi như một chẩn đoán mới, nó sẽ khác với việc tái phát khối u đầu tiên.
  • Bất thường sinh thiết vú: Kết quả sinh thiết vú bất thường cũng có liên quan đến ung thư vú
  • Điều trị tia xạ vùng ngực: Nếu trước đây bạn đã từng được điều trị tia xạ vùng ngực thì nguy cơ mắc ung thư vú cũng tăng lên
  • Chu kỳ kinh nguyệt hoặc mãn kinh: Dậy thì sớm trước 12 tuổi hoặc mãn kinh sau 55 tuổi là yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú
  • Sử dụng thuốc DES (diethylstilbestrol) trong thời kỳ mang thai với mục đích giảm nguy cơ sảy thai. Theo một số nghiên cứu gần đây thì loại thuốc này có liên quan tới bệnh ung thư vú.
  • Chủng tộc: Người phụ nữ da trắng có nguy cơ mắc ung thư cao hơn người Mỹ gốc Phi. Tuy nhiên, người Mỹ gốc Phi lại có tỷ lệ tử vong vì ung thư cao hơn. Nguyên nhân có thể được giải thích do tốc độ phát triển của khối u. Nếu là người châu Á, Tây Ban Nha, Ấn Độ thì nguy cơ mắc ung thư vú sẽ thấp hơn.

Một số yếu tố có thể kiểm soát:

  • Mang thai: Không có con hoặc mang thai lần đầu tiên ở sau 30 tuổi làm tăng nguy cơ. Nếu mang thai một hoặc nhiều lần, nhưng lần mang thai đầu tiên là trước 30 tuổi thì nguy cơ ung thư vú sẽ thấp đi. Cho con bú là một cách để giảm nguy cơ mắc bệnh.
  • Cho con bú: Khi sinh con, không cho con bú làm tăng nguy cơ. Trong thời kỳ mang thai, nếu cho con bú sẽ làm giảm chu kỳ kinh nguyệt đồng thời làm giảm nguy cơ ung thư vú. Đặc biệt nên cho con bú từ 1,5-2 năm làm giảm nguy cơ đến một nửa.
  • Thuốc tránh thai: Vẫn còn đang có nhiều tranh cãi về thuốc tránh thai ảnh hưởng làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Một số nghiên cứu cho rằng khi sử dụng thuốc thì nguy cơ mắc bệnh có xu hướng tăng nhẹ. Nếu bỏ thuốc hơn 10 năm hoặc nhiều hơn thì nguy cơ sẽ không tăng. Nếu bạn đang cân nhắc việc dụng thuốc tránh thai, nên tham khảo ý kiến bác sĩ để biết rõ những rủi ro và tác dụng của nó.
  • Rượu: Uống rượu thường xuyên làm tăng nguy cơ so với những những phụ nữ không uống rượu
  • Liệu pháp thay thế hormone (HRT): Nếu bạn sử dụng lâu dài HRT dạng kết hợp (estrogen kết hợp progesterone) sau mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc ung thư cũng như các bệnh tim mạch, huyết khối và đột quỵ. Ở những người sử dụng HRT dạng kết hợp phát hiện ung thư vú thường ở những giai đoạn sau. Trong trường hợp ngừng sử dụng HRT, sau 5 năm nguy cơ mắc ung thư của bạn trở về bình thường. Estrogen khi sử dụng một mình (ERT) không có ảnh hưởng, trừ trường hợp bạn đã có chẩn doán ung thư vú dương tính với estrogen receptor. Vì vậy, nên đi khám để được tư vấn đầy đủ về ưu và nhược điểm khi sủ dụng HRT.
  • Cân nặng và chế độ ăn uống: Những người thừa cân thường có nguy cơ cao hơn đặc biệt nếu đang trong thời kỳ mãn kinh, và cân nặng luôn có xu hướng tăng. Có mối liên hệ giữa trọng lượng thừa và nguy cơ ung thư vú.
  • Thói quen tập thể dục: Nếu không tập thể dục thường xuyên nguy cơ sẽ tăng lên. Vậy tập thể dục bao nhiêu là đủ? Một nghiên cứu cho rằng đi bộ nhanh mỗi ngày từ 75-120 phút làm giảm nguy cơ 18%. Trong 1 tuần nếu dành 10 giờ đi bộ sẽ làm giảm nguy cơ nhiều hơn chút nữa.

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Những thực phẩm giúp phòng ngừa ung thư vú

CTV Phương Nga - Viện Y học ứng dụng Việt Nam - theo Verywell
Bình luận
Tin mới
  • 16/08/2025

    Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tinh thần giới trẻ

    Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.

  • 16/08/2025

    Tầm quan trọng của việc tiêm chủng cho trẻ em và người lớn

    Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

  • 15/08/2025

    Ăn bao nhiêu rau quả mỗi ngày là đủ?

    Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?

  • 15/08/2025

    Người cao tuổi vẫn có thể bị suy dinh dưỡng?

    Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.

  • 15/08/2025

    Báo cáo trường hợp: Sốc nhiễm trùng kèm viêm da, cân cơ hoại tử do nhiễm Vibrio vulnificus qua vết thương ở da

    Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.

  • 15/08/2025

    Cảnh báo: Vi khuẩn “ăn thịt người” Vibrio vulnificus đang gia tăng ở Mỹ. Khuyến cáo cho Việt Nam

    Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.

  • 14/08/2025

    Ngày nào cũng ăn trứng có được không?

    Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?

  • 14/08/2025

    Bỏng nắng và các phản ứng khác của da với ánh nắng mặt trời

    Mặt trời tạo ra các tia vô hình gọi là tia cực tím A (UVA) và tia cực tím B (UVB) có thể gây hại cho da của bạn . Quá nhiều ánh nắng mặt trời có thể gây cháy nắng , thay đổi kết cấu da và ung thư da. Phát ban cũng có thể là do ánh nắng mặt trời. Ngay cả trong những ngày nhiều mây, bức xạ UV vẫn chiếu xuống mặt đất và có thể gây hại cho da.

Xem thêm