Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Những yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung

Những yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung bao gồm các yếu tố có thể thay đổi được cũng như các yếu tố không thể thay đổi được. Hiểu rõ về các yếu tố nguy cơ sẽ giúp chúng ta có các biện phóng phòng tránh hay phát hiện sớm phù hợp.

Những yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung

Biết về các yếu tố nguy cơ giúp chúng ta có thể tập trung vào những yếu tố có thể thay đổi được (ví dụ như hút thuốc lá hay nhiễm virus Human Papilomavirus- HPV) chứ không phải là các yếu tố không thể thay đổi được (như tuổi tác và tiền sử gia đình).

Tuy nhiên biết về các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được cũng rất quan trọng vì bạn có thể chủ động khám bệnh để phát hiện sớm ung thư, ví dụ ở những phụ nữ có yếu tố nguy cơ về tiền sử gia đình sẽ được khuyến cáo làm xét nghiệm PAP test thường xuyên để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung

Yếu tố nguy cơ là những yếu tố làm thay đổi khả năng mắc bệnh. Những bệnh ung thư khác nhau thì có các yếu tố nguy cơ khác nhau. Ví dụ nhưng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời cường độ cao là yếu tố nguy cơ gây ung thư da. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ của nhiều loại ung thư. Nhưng có một, thậm chí một vài yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ mắc bệnh.

Một vài yếu tố nguy cơ có thể làm tăng khả năng mắc ung thư cổ tử cung. Những phụ nữ không có các yếu tố nguy cơ này sẽ hiếm khi mắc ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên cũng có những phụ nữ có các yếu tố nguy cơ này mà không mắc ung thư. Khi một phụ nữa mắc ung thư cổ tử cung hay có những thay đổi tiền ung thư thì cũng không thể nói rằng đó là do các yếu tố nguy cơ gây nên.

Dưới đây là các yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử cung:

Nhiễm Human Papilomavirus - HPV (virus sinh u nhú ở người)

Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của ung thư cổ tử cung là nhiễm HPV. HPV là một nhóm gồm hơn 150 virus, một trong số đó gây ra sự phát triển của u nhú, thường được gọi là mụn cóc.

HPV có thể lây nhiễm sang các tế bào ở trên bề mặt da ở miệng, họng, cơ quan sinh dục, hậu môn, nhưng không có trong máu, nội tạng như tim, phổi.

HPV có thể lan truyền từ người qua tiếp xúc trực tiếp da-da, lây truyền qua quan hệ tình dục từ âm đạo, hậu môn, miệng.

Các type HPV khác nhau gây ra mụn cóc trên các phần khác nhau của cơ thể. Một số gây mụn cóc trên bàn tay, bàn chân, một số lại gây mụn cóc trên môi, lưỡi. Một vài type gây ra mụn cóc trên bộ phận sinh dục của nam và nữ, khu vực quanh hậy môn. Đây là những type nguy cơ thấp vì chúng ít khi liên quan đến ung thư.

Những type nguy cơ cao có liên quan nhiều đến ung thư như ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo ở phụ nữ, ung thư dương vật ở nam giới và ung thư hậu môn, miệng, họng ở cả hai giới.

Các bác sĩ tin rằng một người phụ nữ chắc chắn bị nhiễm HPV nếu mắc ung thư cổ tử cung. Mặc dù có thể do nhiễm trùng bất kì type nguy cơ cao nào, nhưng 2/3 số phụ nữ bị ung thư cổ tử cung do nhiễm 2 type HPV 16 và 18.

Nhiễm HPV thường xảy ra nhưng hầu hết các lần nhiễm cơ thể có thể tự loại bỏ được. Tuy nhiên, có những trường hợp nhiễm HPV và cơ thể không tự đẩy lùi được và trở thành nhiễm HPV mạn tính. Nhiễm HPV mạn tính, đặc biệt là nhiễm các type nguy cơ cao, cuối cùng có thể dẫn tới ung thư cổ tử cung.

Mặc dù chưa có cách để chữa khỏi nhiễm HPV nhưng có nhiều cách để điều trị mụn cóc và các tế bào phát triển bất thường do HPV gây nên.

Hút thuốc lá

Khi một ai đó hút thuốc thì họ và những người xung quanh có nguy cơ phơi nhiễm với các hóa chất gây ung thư các cơ quan khác ngoài phổi. Những chất có hại được hấp thu qua phổi, vào máu và đi khắp cơ thể.
Phụ nữ hút thuốc có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao gấp 2 lần người không hút thuốc. Những chất liên quan đến thuốc lá được tìm thấy trong dịch nhầy cổ tử cung của những phụ nữ hút thuốc. Các nhà nghiên cứu cho rằng các chất này phá hủy DNA của các tế bào cổ tử cung và góp phần vào việc phát triển ung thư cổ tử cung. Hút thuốc lá cũng làm hệ miễn dịch kém hiệu quả hơn trong việc chống lại nhiễm HPV.

Suy giảm miễn dịch

HIV là virus gây ra AIDS, phá hủy hệ thống miễn dịch và làm phụ nữ có nguy cơ cao bị nhiễm HPV. Đó là lí do tại sao những phụ nữ bị AIDS có nguy cơ cao bị ung thư cổ tử cung.

Hệ thống miễn dịch đóng vai trò quan trọng trong việc phá hủy các tế bào ung thư cũng như làm chậm sự phát triển và lan truyền của chúng. Ở phụ nữ bị nhiễm HIV thì các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung có thể phát triển thành ung thư xâm lấn với tốc độ nhanh hơn bình thường.

Một nhóm phụ nữ khác cũng có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung là những người sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch, ví dụ như những người đang điều trị bệnh tự miễn hay cấy ghép nội tạng.

Nhiễm Chlamydia

Chlamydia là loại vi khuẩn phổ biến gây nhiễm trùng ở cơ quan sinh dục và lây truyền qua quan hệ tình dục. Nhiễm Chlamydia có thể gây viêm vùng chậu và dẫn tới vô sinh.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng những phụ nữ có kết quả máu cho thấy đã nhiễm Chlamydia trong quá khứ hoặc hiện tại, có nguy cơ cao bị ung thư cổ tử cung so với những phụ nữ có kết quả xét nghiệm máu bình thường. Những phụ nữ bị nhiễm Chlamydia thường không có triệu chứng. Thực tế, họ chỉ biết mình bị nhiễm khi xét nghiệm máu.

Chế độ ăn ít rau và hoa quả

Những phụ nữ có chế độ ăn không đủ rau và hoa quả làm tăng nguy cơ bị ung thư cổ tử cung.

Thừa cân

Những phụ nữ quá béo có khả năng phát triển ung thư biểu mô tuyến ở cổ tử cung

Sử dụng thuốc tránh thanh kéo dài (viên uống tránh thai)

Có bằng chứng chỉ ra rằng sử dụng thuốc tránh thai đường uống kéo dài làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư tăng lên ở những phụ nữ uống thuốc tránh thai kéo dài, nhưng nguy cơ cũng giảm xuống sau dừng thuốc. Ở nghiên cứu này, nguy cơ ung thư cổ tử cung tăng gấp 2 lần ở những phụ nữ uống thuốc tránh thai kéo dài trên 5 năm, nhưng nguy cơ trở về mức bình thường sau khi họ dừng thuốc 10 năm.

Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo phụ nữ nên thảo luận với bác sĩ về những lợi ích cũng như những nguy cơ tiềm ẩn của việc uống thuốc tránh thai. Phụ nữ có nhiều bạn tình nên sử dụng bao cao su để giảm nguy cơ nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Sử dụng dụng cụ tử cung (vòng tránh thai)

Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những phụ nữ đã từng sử dụng dụng cụ tử cung có nguy cơ thấp bị ung thư cổ tử cung. Ảnh hưởng này được tìm thấy trên những phụ nữ sử dụng dụng cụ tử cung dưới một năm và hiệu quả bảo vệ vẫn còn sau khi dụng cụ tử cung đã được tháo bỏ.

Sử dụng dụng cụ tử cung có thể làm giảm nguy cơ ung thư tử cung. Tuy nhiên, nó cũng có một vài rủi ro khác. Hãy thảo luận với bác sĩ của bạn về những nguy cơ cũng như rủi ro trước khi sử dụng.

Mang thai nhiều lần

Những người có 3 con trở lên làm tăng nguy cơ bị ung thư cổ tử cung. Một giả thuyết cho rằng một phụ nữ phải quan hệ không được bảo vệ mới có thai vì vậy họ đã phơi nhiễm với HPV nhiều hơn.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng cho rằng sự thay đổi hóc-môn khi mang thai có thể làm cho phụ nữ dễ nhiễm HPV và phát triển ung thư. Mặt khác, khi mang thai hệ thống miễn dịch yếu hơn cũng tạo điều kiện cho nhiễm HPV và ung thư phát triển.

Có thai lần đầu khi nhỏ hơn 17 tuổi

Phụ nữ có thai lần đầu trước 17 tuổi có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung cao gấp 2 lần so với những phụ nữ có thai lần đầu sau 25 tuổi.

Điều kiện kinh tế thấp

Điều kiện kinh tế thấp cũng là một yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung. Những phụ nữ có thu nhập thấp không có điều kiện tiếp cận với các chăm sóc y tế đầy đủ, bao gồm cả xét nghiệm PAP test. Điều này có nghĩa là họ không được sàng lọc hoặc điều trị các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung.

Diethylstilbestrol (DES)

DES là thuốc nội tiết tố được tiêm cho phụ nữ để phòng sảy thai từ năm 1940 đến 1971. Những phụ nữ sử dụng DES khi họ mang thai phát triển các tế bào ung thư biểu mô tuyến ở âm đạo và cổ tử cung nhiều hơn so với bình thường. Loại ung thư này cực kì hiếm gặp ở những phụ nữ không sử dụng DES. Nó gặp ở khoảng 1/1.000 phụ nữ có mẹ sử dụng DES trong suốt thai kì. Điều này có nghĩa là 99,9% những “cô gái DES” không phát triển ung thư này.

Tiền sử gia đình có người mắc ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung có thể xuất hiện ở một số gia đình. Nếu mẹ hoặc chị gái bị mắc ung thư thì nguy cơ mắc của bạn tăng gấp 2-3 lần so với những phụ nữ không có tiền sử gia đình như vậy.

Các nhà khoa học nghi ngờ rằng những phụ nữ ở các gia đình này có ít khả năng chống lại nhiễm HPV hơn những phụ nữ khác. Trong khi đó thì những phụ nữ này có nhiều khả năng để có một hoặc nhiều hơn các yếu tố không di truyền đã được mô tả ở trên.

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Ung thư cổ tử cung khi mang thai

Bình luận
Tin mới
  • 21/11/2024

    Trị bệnh Parkinson bằng Đông y có hiệu quả không?

    Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.

  • 21/11/2024

    Tăng cường sức khỏe xương khớp cho người cao tuổi trong mùa đông

    Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh

  • 21/11/2024

    Tức giận - Kẻ thù thầm lặng của sức khỏe

    Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.

  • 21/11/2024

    Bệnh hô hấp và cách bảo vệ sức khỏe trong mùa lạnh

    Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.

  • 20/11/2024

    9 cách chữa đau chân tại nhà hiệu quả

    Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.

  • 19/11/2024

    Các phương pháp điều trị bênh tiêu chảy tự nhiên khi bạn đang cho con bú

    Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.

  • 18/11/2024

    Tại sao người đái tháo đường nên ăn rau đầu tiên?

    Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

  • 18/11/2024

    Ngày Trẻ em Thế giới: Bồi dưỡng sức khỏe thể chất và tinh thần cho trẻ

    Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Xem thêm