Đầu tiên người ta tìm thấy tế bào gốc ở hệ thống tạo máu, sau đó người ta thấy ở hầu hết các mô khác nhau đều có sự hiện diện của tế bào gốc. Tế bào gốc có nhiều ứng dụng trong y học.
Tế bào gốc trưởng thành (tế bào gốc soma): tế bào gốc được tìm thấy trong hầu hết các mô và cơ quan trong cơ thể, và tồn tại trong suốt cuộc đời mỗi cá thể. Chúng có vai trò duy trì các mô và đáp ứng lại tổn thương.
Điều này đặc biệt đúng với các mô có vòng đời thay thế tế bào cao, như tế bào máu, da, ruột. Trái với tế bào gốc, sự phân chia của tế bào trưởng thành chỉ giới hạn ở một số lần phân chia.
Do đó trong trường hợp tổn thương nặng, mô phụ thuộc chủ yếu tế bào trưởng thành tại chỗ phân chia thay thế tế bào bị tổn thương sẽ ít có khả năng tái sinh hơn là mô phụ thuộc vào tế bào gốc tại chỗ.
Tế bào gốc đã được thử nghiệm biệt hoá thành công ở in vitro thành nhiều loại tế bào tuỳ theo mục đích sử dụng, bao gồm tế bào thần kinh đệm ít gai, tế bào tuỵ, tế bào cơ tim, tế bào neuron vận động và neuron hệ dopamin, tế bào tiền tạo máu.
Ứng dụng giá trị của tế bào gốc đã được chứng minh trong điều trị cho động vật bị mù giác mạc, bệnh nhân Parkinson, Hungtington, tổn thương tủy sống, nhồi máu cơ tim, đái tháo đường týp 1.
Đối với bệnh nhân bệnh võng mạc: sau khi tiêm vào trong mắt, những tế bào võng mạc từ tế bào gốc ES di chuyển tới lớp võng mạc và biệt hóa thành tế bào gậy và que.
Với bệnh nhân Parkinson: một lượng lớn tế bào thần kinh não giữa được cấy bởi tế bào gốc của chuột. Sau đó, chúng tiết ra chất dopamin thể hiện sự hiện diện đáp ứng điện sinh lý và các đặc tính đáp ứng giống tế bào thần kinh não giữa.
Đối với tổn thương tủy sống: nghiên cứu ghép tế bào gốc thần kinh đệm ít gai vào chuột trưởng thành 7 ngày sau khi gây tổn thương tủy sống có thể giúp làm tăng quá trình tái tạo myelin và khởi động chức năng vận động.
Nhồi máu cơ tim và suy tim: nhiều nghiên cứu cho thấy cấy ghép tế bào gốc ES cho cơ tim có thể làm tăng khả năng co bóp của cơ tim chuột sau khi bị nhồi máu. Một nghiên cứu khác khi sử dụng yếu tố làm tăng khả năng sống sót của tế bào ghép và làm giảm nguy cơ chết của tế bào sau ghép ở chuột điều trị với tế bào gốc ES so với nhóm chứng đã làm giảm tỉ lệ suy tim và phục hồi một phần cơ tim (tăng chiều dày của thành tim bị nhồi máu).
Đái tháo đường týp 1: hiện nay chưa có phương pháp nào có thể giúp biệt hoá thành công tế bào gốc thành tế bào tuỵ đảo beta tiết insulin, mặc dù trong phòng thí nghiệm người ta đã thành công nuôi cấy tế bào beta bằng cách chọn lọc sự biểu hiện gen tế bào beta hoặc thay đổi môi trường nuôi cấy.
Disease modifiers: (điều khiển bệnh tật) sử dụng một số tế bào gốc để thay thế bệnh tật, thay thế đáp ứng của tế bào với tổn thương hoặc những bất thường của hệ miễn dịch. Ví dụ tế bào gốc ghép vào có thể gây ra các tín hiệu phức tạp, ảnh hưởng đến kết cục của bệnh tật mà không thay thế trực tiếp tế bào bị tổn thương.
Khả năng của tế bào gốc trung mô tạo thành tế bào cơ dẫn tới những khám phá trong điều trị thiếu máu cơ tim. Một số nghiên cứu cho rằng tế bào gốc trung mô đóng góp trong việc tái sinh các tế bào ở vùng bị tổn thương.
Hơn nữa, chúng còn giải phóng các hoóc-môn và ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng của tim (và mô khác) với việc thiếu máu.
Cũng có giả thuyết khác cho rằng quần thể tế bào gốc có khả năng ảnh hưởng tới hệ miễn dịch và do đó thay đổi đáp ứng của tổn thương với việc thiếu máu, hoặc làm giảm bớt hậu quả của bệnh do miễn dịch. Tuy nhiên, vai trò ảnh hưởng của tế bào và cơ chế hoạt động của tế bào như thế nào vẫn còn đang được bàn cãi.
Viễn cảnh về việc tế bào trung mô có khả năng di chuyển tới vùng tổn thương, tạo ra các hoóc-môn đáp ứng là vấn đề hấp dẫn và ứng dụng lâm sàng quan trọng trong nghiên cứu sinh học tế bào gốc, nhưng chưa thực sự trở thành một phương pháp điều trị có thể áp dụng trên thực tế.
Một ứng dụng khác của sinh học tế bào gốc trong lĩnh vực gây ung thư. Giả thiết cho rằng có 1 quần thể tế bào ác tính có thể xác định được, có 2 chức năng giống tế bào gốc (tự sinh sản và khả năng biệt hóa).
Những tế bào này giống tế bào gốc ở mô lành, có thể thay thế tế bào trưởng thành mà vòng đời của nó bị giới hạn. Do đó chúng được cho là loại tế bào kích hoạt tính gan lì và có thể sự di căn của khối u.
Giả thiết này được chứng minh bằng cách ghép tế bào ung thư người trên chuột đã được bất hoạt miễn dịch. Các nhóm nhỏ tế bào u tìm thấy ở động vật được ghép tế bào u, trong khi đó các loại tế bào khác thì không thấy.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.