Ngày Đái tháo đường thế giới được được Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế và các hiệp hội thành viên như Hoa Kỳ, Anh, Úc, Canada, Nam Phi, New Zealand, Ấn Độ, Việt Nam…tổ chức vào ngày 14 tháng 11 hằng năm nhằm tăng cường nhận thức về căn bệnh, nguy cơ, biến chứng và cách phòng tránh.
1. Đái tháo đường là căn bệnh thế kỷ
Năm 1995, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thống kê thấy có 135 triệu người ĐTĐ trên toàn thế giới (chiếm 4% dân số thế giới, nên dự báo năm 2010 sẽ là 221 triệu người và năm 2025 là 330 triệu người mắc căn bệnh này (chiếm 5,4%). Nhưng năm 2011, WHO thống kê lại thì đã có 366 triệu người ĐTĐ và dự kiến đến năm 2030 sẽ có 552 triệu người.
Vì vậy, WHO nhận định rằng: “Thế kỷ XXI này là thế kỷ của các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa mà điển hình là bệnh ĐTĐ. Những gì mà đại dịch HIV/AIDS đã hoành hành 20 năm cuối thế kỷ XX, thì đó sẽ là điều ĐTĐ làm trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI”.
2. Đái tháo đường đang gia tăng nhanh và trẻ hóa
Tại Việt Nam, theo điều tra năm 2001, tỷ lệ người mắc bệnh ĐTĐ tại khu vực nội thành của 4 thành phố lớn là 4%, đến năm 2008 tỷ lệ chung toàn quốc là 5,7% và đến nay đã hơn 6%.
Tuy tỷ lệ ĐTĐ của Việt Nam không cao nhất thế giới, nhưng Việt Nam lại có 3 yếu tố nguy cơ:(1) Tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới, (2) Người bệnh đang “trẻ hóa” nhiều và (3) Nhận thức của cộng đồng về đái tháo đường còn rất thấp.
3. Đái tháo đường có khá nhiều biến chứng
Nếu không được điều trị đúng cách, đái tháo đường có nhiều biến chứng mạn tính như: bệnh lý tim mạch, biến chứng mắt, bệnh lý thần kinh, tổn thương bàn chân đái tháo đường, bệnh thận …
4. Chi phí điều trị tốn kém, gánh nặng tài chánh
Chi phí để điều trị ĐTĐ khá phức tạp, tốn kém, thường gấp 2-4 lần người bình thường. Chi phí bao gồm cả thuốc men, trang thiết bị, xét nghiệm cận lâm sàng, chi phí những lần đi khám, kiểm tra v.v…Hơn nữa, người bệnh nặng, có biến chứng còn bị mất khả năng lao động, giảm thu nhập cho gia đình.
5. Có thể phòng tránh dễ dàng
Tuy nhiên, ĐTĐ có thể phòng tránh được bằng cách làm giảm nguy cơ mắc bệnh thông qua việc thay đổi lối sống.
Cách sống chuẩn mực để phòng bệnh ĐTĐ gồm hai phần: (1) chế độ ăn uống: kiêng ngọt, giảm mỡ, giàu đạm, thêm chất xơ, phân bố thường là 65% đường bột, 20% chất béo, 15 % chất đạm và (2) chế độ vận động tăng cường thể dục nhẹ, đi bộ, dưỡng sinh…
6. Tầm soát đơn giản
Trước đây, định lượng đường máu đói (Go) và Nghiệm pháp dung nạp glucose là hai xét nghiệm kinh điển, cơ bản để xác định ĐTĐ. Gần mười năm trở lại đây, đường máu bất kỳ (Gbk) và HbA1C được đưa vào tiêu chuẩn chẩn đoán, sàng lọc trên toàn thế giới.
Lợi thế của hai xét nghiệm này là tính khả thi: có thể lấy mẫu máu xét nghiệm bất kỳ, đặc biệt vẫn cho kết quả tin cậy khi bệnh nhân đã lỡ ăn no.
7. Có nhiều thuốc điều trị hiệu quả
Hiện nay, thuốc điều trị ĐTĐ có rất nhiều loại, nhưng tựu trung nằm trong 5 nhóm: insulin, kích thích tiết insulin, chống kháng insulin, giảm hấp thu glucose và giảm phân hủy insulin. Tuy nhiên, trong cả bốn thể bệnh ĐTĐ, cuối cùng đều phải dùng đến insulin.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?